Keith Taylor: Lịch sử chính trị của người Việt từ thế kỉ 15 đến bây giờ chủ yếu là lịch sử đấu tranh giữa những địa phương. Hiện nay ở Việt Nam chính phủ rất muốn nói rằng lịch sử Việt Nam là một lịch sử thống nhất và người Việt Nam là một cộng đồng thống nhất. Nhưng thật ra theo tôi, về quan điểm lịch sử thì điều đó không đúng.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/regionalnews/story/2003/09/030912_keithtaylor.shtml
Thứ Ba, 16 tháng 6, 2009
Thứ Ba, 9 tháng 6, 2009
Link tham khảo
Lính An Nam dưới thời pháp thuộc
có nhiều hình về vũ khí trang bị cho lính thời Pháp
Sự phát triển của vũ khí có thể chia làm hai thời kỳ: thời kỳ vũ khí sử dụng năng lượng cơ bắp của con người và thời kỳ vũ khí sử dụng năng lượng thuốc nổ (thuốc súng). Vũ khí sử dụng thuốc nổ phát triển từ khoảng thế kỷ XIII đến thế kỷ XIX đã khá hoàn thiện. Như vậy có giai đoạn hai loại vũ khí này cùng tồn tại và phát triển. Tuy ra đời rất sớm và có quá trình phát triển lâu dài hàng ngàn năm nhưng loại vũ khí sử dụng sức lực con người hầu như ít có sự tiến bộ về cấu tạo nên hiệu quả không cao, dần dần bị sự phát triển của loại vũ khí sử dụng thuốc nổ thay thế. Thuật ngữ gọi hai loại vũ khí này là Bạch khí và Hỏa khí.
Sự phát triển của vũ khí có thể chia làm hai thời kỳ: thời kỳ vũ khí sử dụng năng lượng cơ bắp của con người và thời kỳ vũ khí sử dụng năng lượng thuốc nổ (thuốc súng). Vũ khí sử dụng thuốc nổ phát triển từ khoảng thế kỷ XIII đến thế kỷ XIX đã khá hoàn thiện. Như vậy có giai đoạn hai loại vũ khí này cùng tồn tại và phát triển. Tuy ra đời rất sớm và có quá trình phát triển lâu dài hàng ngàn năm nhưng loại vũ khí sử dụng sức lực con người hầu như ít có sự tiến bộ về cấu tạo nên hiệu quả không cao, dần dần bị sự phát triển của loại vũ khí sử dụng thuốc nổ thay thế. Thuật ngữ gọi hai loại vũ khí này là Bạch khí và Hỏa khí.
Nước ta trong suốt các triều đại Lý – Trần – Lê không khi nào quên việc sửa sang võ bị để tăng cường khả năng chống giặc ngoại xâm. Ngay trong thời bình nhiều nhà vua đã xuống chiếu nhắc nhở tướng sĩ không được lơ là phòng thủ quốc gia, phải chăm lo rèn binh luyện tướng, đóng chiến thuyền và rèn vũ khí. Binh thư yếu lược viết “ Cái đạo mạnh binh để chiến thắng có 5 điều: Sửa sang binh khí; Có đủ quân lính và xe cộ; Súc tích nhiều; Rèn luyện sĩ tốt; Kén được tướng giỏi”. Như vậy, “sửa sang binh khí” là điều quan trọng đầu tiên. Trong lịch sử nước ta, trang bị bạch khí cho quân đội phát triển nhất vào thời Lê, thế kỷ XV – XVI. Đến thế kỷ XVIII loại bạch khí phổ biến nhiều loại thông dụng. Theo Hội Điển của triều Nguyễn thì đến giữa thế kỷ XIX phần lớn binh lính của triều đình ra trận còn trang bị bằng bạch khí. Quân đội Tây Sơn tuy đã có pháo và một số loại hỏa khí nhưng về cơ bản vẫn trang bị bạch khí là chính.
Vũ khí cổ Việt Nam có thể chia thành các loại theo chức năng vận hành và hình dáng, gồm có:
- Bạch khí: vũ khí đánh gần, vũ khí đánh xa, vũ khí phòng ngự.
- Hỏa khí: súng lệnh, súng thần công, đạn đá, đạn gang.
* Bạch khí.
Vũ khí đánh gần: gồm có giáo, trường, câu liêm, kiếm, đinh ba…
- Về giáo: có giáo có chuôi hoặc họng tra cán, mũi giáo hình búp đa, hình ngòi bút, hình lá lúa, giáo có ngạnh ở thân. Giáo có thể tra cán ngắn hay dài đến hơn 2m (giáo trường) nên họng tra cán hay chuôi lắp cán đặc biệt cần vững chắc. Kích thước chung của các loại giáo: dài toàn thân từ 29 – 44cm, rộng lưỡi từ 3 - 4,4cm, nặng từ 250 – 540gr. Riêng giáo có ngạnh ở thân dài từ 23 – 40cm, nặng 100 – 320gr, thân giáo có tiết diện vuông thon dần về mũi, ngạnh vuông ở gần mũi nhọn. Ngạnh vuông nhọn dài khoảng 1,5 - 2cm. Chuôi giáo có lỗ chốt đinh để gắn vào cán.
- Mũi trường: là loại giáo có cán rất dài có thể đến 4m, tác dụng dùng để đâm với lực rất mạnh. Mũi trường có tiết diện hình vuông chia thành hai phần rõ rệt là mũi và chuôi tra cán. Kích thước chung: dài từ 40 – 64cm, tiết diện mũi 1,4 x 1,4cm, nặng từ 300 – 520gr.
- Câu liêm: là loại vũ khí khá phổ biến vì có khả năng vừa bổ, đâm, móc kẻ thù. Kích thước thường lớn và được rèn chế khá cầu kỳ. Cấu tạo câu liêm cũng gồm 2 phần là mũi và chuôi tra cán. Mũi thẳng theo trục dọc của chuôi tra cán (phần giáo), sát đầu cán vòng ra một lưỡi hình trăng khuyết, đầu phẳng, sắc (phần câu). Phần cuối đốc câu tạo thành chuôi tra cán. Kích thước chung: dài 52 – 66cm, nặng từ 580 – 1000gr.
- Kiếm: còn được coi là vũ khí tùy thân vì thường được đeo bên mình các tướng lĩnh. Gồm đoản kiếm và trường kiếm. Lưỡi kiếm dài từ 40 – 61cm, nặng từ 500 – 1300gr. Đoản kiếm lưỡi khá rộng còn trường kiếm lưỡi hẹp hơn.
Vũ khí đánh xa. Gồm có lao. Móc câu, mũi tên. Đây là loại vũ khí có khả năng sát thương đối phương trong một khoảng cách xa, sức đẩy vũ khí đi xa do sức của con người, và sức đẩy cơ học.
- Lao: Phần đầu của lao giống mũi tên có cánh lớn , có 2,3 ngạnh, họng tra cán dài, kích thước trung bình 20 – 26cm, nặng khoảng 100 – 120gr.
- Móc câu chùm: hình dáng giống chiếc mỏ neo nhưng có 3 móc câu uốn cong lên, dùng để quăng, móc. Tiết diện thân hình chữ nhật, móc cong tiết diện hình tròn.
- Mũi tên: dùng với cung, nỏ, loại vũ khí đánh xa truyền thống của dân tộc ta. Dài từ 5 – 13cm, thân mũi tên dài từ 4 – 8cm.
Vũ khí phòng ngự. Mũi chông củ ấu, chông 3 cạnh…
Ngoài ra còn có các loại vũ khí làm từ tre nứa như cung tên, nỏ, bẫy… hay những địa hình bất lợi tự nhiên, thậm chí nhiều loại động vật có nọc độc như ong vò vẽ cũng được sử dụng phổ biến trong thế trận chiến tranh du kích.
* Hỏa khí. Gồm có súng lệnh và súng thần công. Sử cũ còn ghi ngay từ thời Trần đã có pháo đặt trên thuyền tấn công vào chiến thuyền của quân đội Champa. Hồ Quý Ly đã ra lệnh cho con trai là Hồ Nguyên Trừng nghiên cứu sáng chế súng thần công “thần cơ sang pháo” để chống quân xâm lược Minh. Sau này khi Hồ Nguyên Trừng bị bắt sang Trung quốc, nhà Minh đã bắt ông chế tạo loại vũ khí này. Súng ông chế ra có 3 loại: loại lớn đặt trên lưng voi, loại vừa hai người khiêng và loại nhỏ 1 người vác trên vai. Ông được coi là ông tổ của súng thần công.
Từ thế kỷ XIII - XIX ở Việt Nam đã có nhiều loại hỏa khí với nhiều tên gọi khác nhau. Trong đó phổ biến nhất là súng lệnh, súng thần công và một số khẩu đại pháo đúc vào thời Nguyễn.
- Súng lệnh: dùng để bắn phát lệnh. Thân súng chia làm 3 phần rõ rệt: nòng súng, bầu nạp thuốc súng phình to ở gần đuôi và phần đuôi súng. Mỗi phần đều có đai rộng ngăn cách. Trên thân bầu có 2 chi tiết: Hai trụ nổi như đường rãnh ngắm của súng, nằm giữa hai đường là một gờ nổi, có lỗ nhỏ để tra dây cháy chậm mồi nổ cho thuốc súng chứa trong bầu. Bên trong phần bầu đúc hình răng cưa cho thành của bầu nòng vững chắc không bị phá vỡ khi thuốc súng nổ. Trên thân súng còn hay khắc chữ số ký hiệu súng, như “Công tự tam bách thập phân thất hiệu”, nghĩa là “hiệu chữ công số 317”… Kích thước của súng lệnh không lớn, dài khoảng 30 - 40cm, đường kính miệng khoảng 2,5 – 3cm, đường kính nòng khoảng 1,5cm, nặng khoảng 2,2 – 3,5kg. Thường được đúc nguyên khối. Súng lệnh thời Nguyễn còn có các chữ trên thân súng như “Lôi uy tả sở nhị bách lục thập hiệu”, “Báo Vĩnh Hưng”… Nhiều khẩu súng lệnh làm đơn giản, không có ký hiệu, dài ngắn khác nhau từ 30 – 40cm.
- Súng thần công. Thường có tên gọi như Đại Tướng quân, Thượng Tướng quân, Thần Cơ doanh…phổ biến hơn vào thời Nguyễn. Phần lớn súng thần công dài từ 40cm trở lên đến khoảng hơn 100cm. Đường kính ngoài của nòng súng từ 14 – 16cm, đường kính trong từ 3 – 8 cm, đường kính thân nơi lớn nhất từ 13 – 22cm, là phần chứa thuốc súng. Súng có cấu tạo gồm nòng súng lớn dần đến phần đuôi, quanh vành miệng nòng có đai dày, ngoài ra trên thân còn một vài đai khác nhằm giữ cho súng không bị vỡ khi đạn nổ. Lỗ tra ngòi ở vào khoảng 1/3 thân từ đuôi súng, giáp đó có tay xách hình vòng cung nhô cao (súng nhỏ có 1 tay xách ở giữa, còn súng lớn có hai cái đối xứng nhau. Súng thường không có tai chống giật mà có một rãnh cắt ngang đuôi súng, khớp với một bộ phận ở bệ súng giữ cho nòng không giật khi bắn. Đuôi súng là khối tròn. Trên súng thần công hay ghi tên súng, kích thước, cân nặng.
- Đạn súng lệnh, súng thần công: thường bằng đá hay đúc bằng gang, sắt. Hình cầu. Đạn đá đường kính từ 2,5 – 5,5cm, nặng từ 50 – 200gr, có viên lớn hơn. đạn sắt, gang kích thước lớn thường hơn, trung bình trên 10cm, là loại đạn của các khẩu thần công lớn. Ngoài ra thời Nguyễn còn có loại đạn bướm “hồ điệp…” có cấu tạo hai nửa cầu nồi kiền với nhau bởi 1 sợi dây xích dài khoảng 25 – 30cm. Khi bắn đạn bay ra giống đàn bướm bay, tính sát thương cao hơn nhiều.
* “Cửu vị thần công” thời Nguyễn. Theo sử sách, trước ngày Kinh đô Huế thất thủ (5.7.1885) tại Huế có 850 khẩu súng thần công. Nhưng sau sự kiện ấy, Pháp đã ra lệnh phá hủy và thu hồi kim loại. Đến nay Huế chỉ còn lưu giữ khoảng 60 khẩu thần công, đây là những cổ vật quý hiếm được đúc dưới thời Gia Long và Minh Mạng. Trong số này có “Cửu vị Thần công” - 9 khẩu đại bác vĩ đại bằng đồng được đúc vào đầu triều Nguyễn (1804) do những người thợ Phường Đúc Huế chế tác. Ngay sau khi hoàn thành chúng được đặt phía trước Hoàng Thành, phía trong hai cửa Thể Nhơn và Quảng Đức. Cửu vị thần công được chia làm hai nhóm: nhóm bên tả phía cửa Thể Nhơn có 4 khẩu đặt tên theo 4 mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông; nhóm bên hưũ phía cửa Quảng Đức có 5 khẩu đặt tên theo ngũ hành: Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ. Cả 9 khẩu đều được phong là “Thần oai vô địch thượng tướng quân” (được khắc bằng chữ Hán trên thân súng) dù cho đến hết thời Nguyễn chúng chưa tham gia trận mạc bao giờ!
Hình thức và cấu tạo: Đầu miệng súng hơi loe, phần đuôi phình ra được đúc kín gọi là khối hậu (chỗ chứa thuốc súng). Trên thân súng có 6 gờ nổi, trang trí 8 dải hoa văn chạy quanh thân. Giữa súng có gắn hai quai khắc hình hai con lân uốn cong hình dấu ngã. Cách quai 14cm có gờ nổi, trên gờ này khắc chữ Hán cẩn bạc, nội dung ghi công trạng toàn ban đốc công chế tạo súng. Ngoài ra trên thân mỗi súng khắc một bài minh nêu rõ lý do đúc súng vào năm Gia Long thứ 3 (1804).
Quy mô Cửu vị thần công: 9 khẩu đại bác đều dài 5,10m, chu vi vòng thân nơi lớn nhất đến 2,16m, đường kính nòng rộng 0,51m (khẩu kính 230mm), trọng lượng khẩu nhỏ nhất là 17.100 cân, lớn nhất là 18.400 cân.
Súng được trang trí các dải hoa văn tinh xảo ở phần thân, quai. Cả 9 khẩu đều đặt trên hệ thống giá đỡ bằng gỗ lim có bánh xe (thường gọi là bệ súng). Giá súng dài 2,75m, cao 0,73m, bánh xe bằng gỗ có viền sắt đường kính 0,62m, dày 0,22m. Mặt ngoài giá súng chạm khắc hình rồng, đầu rồng chạm nổi mắt lồi trông dữ tợn, nét chạm không cầu kỳ nhưng tinh tế. Riêng các trục quay có hình trụ dài 0,18m, đường kính 0,22m. mặt ngoài có ghi: bên phải là trọng lượng của súng, bên trái ghi cách nạp thuốc và sử dụng súng. Việc bắn súng rất phức tạp nên mỗi khẩu thần công phải có một khẩu đội 5 người phục vụ dưới quyền chỉ huy của một khẩu đội trưởng, đạn phải nạp qua miệng pháo, mất nhiều thời giờ mà tính sát thương không cao, chỉ có tác dụng phá vở công sự kiên cố và thành lũy.
Bên cạnh Cửu vị Thần công, ở Huế còn có 2 khẩu thần công đúc vào thời Minh Mạng (1834). Đây là hai khẩu đại pháo có khẩo kính 310mm, được đặt trên bệ xi măng. Súng dài 1,06m, thân súng có3 gờ chia làm 4 khoang không đều nhau, không có hoa văn. Trên gờ cuối cùng có lỗ điểm hỏa ghi hàng chữ Hán Ngự chế thần uy phá địch Đại tướng quân đệ nhất vị và cuối núm gờ nổi khắc hàng chữ Minh Mạng thập ngũ chú niên. So với Cửu vị Thần công hai khẩu đại pháo thời Minh Mạng không có chỉ dẫn cách bắn, cách dùng đạn cũng như ghi kích thước trọng lượng súng. Bên cạnh súng còn đặt một viên đạn tròn bằng đá đường kính 290mm.
Để đúc những khẩu Thần công lớn và nặng hàng ngàn cân cần có một hiệp thợ đúc có kỹ thuật hoàn thiện ở tất cả các khâu và sự phối hợp đồng bộ. Kỹ thuật đúc súng Thần công thời Nguyễn còn nổi tiếng về trình độ cao trong việc pha chế kim loại, trang trí hoa văn chữ khắc rõ ràng, sắc sảo, mang tính biểu tượng mạnh mẽ.
Vũ khí cổ Việt nam cho biết trang bị vũ khí cho quân đội thời phong kiến, loại bạch khí chiếm tỷ lệ áp đảo so với hỏa khí, vũ khí đánh gần là chính, bộ binh là quân chủ lực mang tính chất quyết định trên chiến trường. Các loại vũ khí bằng sắt chiếm số lượng lớn được chế tạo bằng phương pháp rèn đập thô sơ nhưng tỏ ra có hiệu quả “lấy đoản binh chế trường trận”. Những loại vũ khí này còn phản ánh một cách sinh động nghệ thuật quân sự Việt Nam là Chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích, lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều. Từ thời Lê Trung hưng và nhất là thời Nguyễn, hỏa khí loại lớn như súng thần công bắt đầu có mặt và ngày càng phổ biến. Tuy nhiên chức năng của chúng thường để báo hiệu lệnh hay để “phô trương”, thị uy chứ không hoặc ít sử dụng trong thực tế.
có nhiều hình về vũ khí trang bị cho lính thời Pháp
Sự phát triển của vũ khí có thể chia làm hai thời kỳ: thời kỳ vũ khí sử dụng năng lượng cơ bắp của con người và thời kỳ vũ khí sử dụng năng lượng thuốc nổ (thuốc súng). Vũ khí sử dụng thuốc nổ phát triển từ khoảng thế kỷ XIII đến thế kỷ XIX đã khá hoàn thiện. Như vậy có giai đoạn hai loại vũ khí này cùng tồn tại và phát triển. Tuy ra đời rất sớm và có quá trình phát triển lâu dài hàng ngàn năm nhưng loại vũ khí sử dụng sức lực con người hầu như ít có sự tiến bộ về cấu tạo nên hiệu quả không cao, dần dần bị sự phát triển của loại vũ khí sử dụng thuốc nổ thay thế. Thuật ngữ gọi hai loại vũ khí này là Bạch khí và Hỏa khí.
Sự phát triển của vũ khí có thể chia làm hai thời kỳ: thời kỳ vũ khí sử dụng năng lượng cơ bắp của con người và thời kỳ vũ khí sử dụng năng lượng thuốc nổ (thuốc súng). Vũ khí sử dụng thuốc nổ phát triển từ khoảng thế kỷ XIII đến thế kỷ XIX đã khá hoàn thiện. Như vậy có giai đoạn hai loại vũ khí này cùng tồn tại và phát triển. Tuy ra đời rất sớm và có quá trình phát triển lâu dài hàng ngàn năm nhưng loại vũ khí sử dụng sức lực con người hầu như ít có sự tiến bộ về cấu tạo nên hiệu quả không cao, dần dần bị sự phát triển của loại vũ khí sử dụng thuốc nổ thay thế. Thuật ngữ gọi hai loại vũ khí này là Bạch khí và Hỏa khí.
Nước ta trong suốt các triều đại Lý – Trần – Lê không khi nào quên việc sửa sang võ bị để tăng cường khả năng chống giặc ngoại xâm. Ngay trong thời bình nhiều nhà vua đã xuống chiếu nhắc nhở tướng sĩ không được lơ là phòng thủ quốc gia, phải chăm lo rèn binh luyện tướng, đóng chiến thuyền và rèn vũ khí. Binh thư yếu lược viết “ Cái đạo mạnh binh để chiến thắng có 5 điều: Sửa sang binh khí; Có đủ quân lính và xe cộ; Súc tích nhiều; Rèn luyện sĩ tốt; Kén được tướng giỏi”. Như vậy, “sửa sang binh khí” là điều quan trọng đầu tiên. Trong lịch sử nước ta, trang bị bạch khí cho quân đội phát triển nhất vào thời Lê, thế kỷ XV – XVI. Đến thế kỷ XVIII loại bạch khí phổ biến nhiều loại thông dụng. Theo Hội Điển của triều Nguyễn thì đến giữa thế kỷ XIX phần lớn binh lính của triều đình ra trận còn trang bị bằng bạch khí. Quân đội Tây Sơn tuy đã có pháo và một số loại hỏa khí nhưng về cơ bản vẫn trang bị bạch khí là chính.
Vũ khí cổ Việt Nam có thể chia thành các loại theo chức năng vận hành và hình dáng, gồm có:
- Bạch khí: vũ khí đánh gần, vũ khí đánh xa, vũ khí phòng ngự.
- Hỏa khí: súng lệnh, súng thần công, đạn đá, đạn gang.
* Bạch khí.
Vũ khí đánh gần: gồm có giáo, trường, câu liêm, kiếm, đinh ba…
- Về giáo: có giáo có chuôi hoặc họng tra cán, mũi giáo hình búp đa, hình ngòi bút, hình lá lúa, giáo có ngạnh ở thân. Giáo có thể tra cán ngắn hay dài đến hơn 2m (giáo trường) nên họng tra cán hay chuôi lắp cán đặc biệt cần vững chắc. Kích thước chung của các loại giáo: dài toàn thân từ 29 – 44cm, rộng lưỡi từ 3 - 4,4cm, nặng từ 250 – 540gr. Riêng giáo có ngạnh ở thân dài từ 23 – 40cm, nặng 100 – 320gr, thân giáo có tiết diện vuông thon dần về mũi, ngạnh vuông ở gần mũi nhọn. Ngạnh vuông nhọn dài khoảng 1,5 - 2cm. Chuôi giáo có lỗ chốt đinh để gắn vào cán.
- Mũi trường: là loại giáo có cán rất dài có thể đến 4m, tác dụng dùng để đâm với lực rất mạnh. Mũi trường có tiết diện hình vuông chia thành hai phần rõ rệt là mũi và chuôi tra cán. Kích thước chung: dài từ 40 – 64cm, tiết diện mũi 1,4 x 1,4cm, nặng từ 300 – 520gr.
- Câu liêm: là loại vũ khí khá phổ biến vì có khả năng vừa bổ, đâm, móc kẻ thù. Kích thước thường lớn và được rèn chế khá cầu kỳ. Cấu tạo câu liêm cũng gồm 2 phần là mũi và chuôi tra cán. Mũi thẳng theo trục dọc của chuôi tra cán (phần giáo), sát đầu cán vòng ra một lưỡi hình trăng khuyết, đầu phẳng, sắc (phần câu). Phần cuối đốc câu tạo thành chuôi tra cán. Kích thước chung: dài 52 – 66cm, nặng từ 580 – 1000gr.
- Kiếm: còn được coi là vũ khí tùy thân vì thường được đeo bên mình các tướng lĩnh. Gồm đoản kiếm và trường kiếm. Lưỡi kiếm dài từ 40 – 61cm, nặng từ 500 – 1300gr. Đoản kiếm lưỡi khá rộng còn trường kiếm lưỡi hẹp hơn.
Vũ khí đánh xa. Gồm có lao. Móc câu, mũi tên. Đây là loại vũ khí có khả năng sát thương đối phương trong một khoảng cách xa, sức đẩy vũ khí đi xa do sức của con người, và sức đẩy cơ học.
- Lao: Phần đầu của lao giống mũi tên có cánh lớn , có 2,3 ngạnh, họng tra cán dài, kích thước trung bình 20 – 26cm, nặng khoảng 100 – 120gr.
- Móc câu chùm: hình dáng giống chiếc mỏ neo nhưng có 3 móc câu uốn cong lên, dùng để quăng, móc. Tiết diện thân hình chữ nhật, móc cong tiết diện hình tròn.
- Mũi tên: dùng với cung, nỏ, loại vũ khí đánh xa truyền thống của dân tộc ta. Dài từ 5 – 13cm, thân mũi tên dài từ 4 – 8cm.
Vũ khí phòng ngự. Mũi chông củ ấu, chông 3 cạnh…
Ngoài ra còn có các loại vũ khí làm từ tre nứa như cung tên, nỏ, bẫy… hay những địa hình bất lợi tự nhiên, thậm chí nhiều loại động vật có nọc độc như ong vò vẽ cũng được sử dụng phổ biến trong thế trận chiến tranh du kích.
* Hỏa khí. Gồm có súng lệnh và súng thần công. Sử cũ còn ghi ngay từ thời Trần đã có pháo đặt trên thuyền tấn công vào chiến thuyền của quân đội Champa. Hồ Quý Ly đã ra lệnh cho con trai là Hồ Nguyên Trừng nghiên cứu sáng chế súng thần công “thần cơ sang pháo” để chống quân xâm lược Minh. Sau này khi Hồ Nguyên Trừng bị bắt sang Trung quốc, nhà Minh đã bắt ông chế tạo loại vũ khí này. Súng ông chế ra có 3 loại: loại lớn đặt trên lưng voi, loại vừa hai người khiêng và loại nhỏ 1 người vác trên vai. Ông được coi là ông tổ của súng thần công.
Từ thế kỷ XIII - XIX ở Việt Nam đã có nhiều loại hỏa khí với nhiều tên gọi khác nhau. Trong đó phổ biến nhất là súng lệnh, súng thần công và một số khẩu đại pháo đúc vào thời Nguyễn.
- Súng lệnh: dùng để bắn phát lệnh. Thân súng chia làm 3 phần rõ rệt: nòng súng, bầu nạp thuốc súng phình to ở gần đuôi và phần đuôi súng. Mỗi phần đều có đai rộng ngăn cách. Trên thân bầu có 2 chi tiết: Hai trụ nổi như đường rãnh ngắm của súng, nằm giữa hai đường là một gờ nổi, có lỗ nhỏ để tra dây cháy chậm mồi nổ cho thuốc súng chứa trong bầu. Bên trong phần bầu đúc hình răng cưa cho thành của bầu nòng vững chắc không bị phá vỡ khi thuốc súng nổ. Trên thân súng còn hay khắc chữ số ký hiệu súng, như “Công tự tam bách thập phân thất hiệu”, nghĩa là “hiệu chữ công số 317”… Kích thước của súng lệnh không lớn, dài khoảng 30 - 40cm, đường kính miệng khoảng 2,5 – 3cm, đường kính nòng khoảng 1,5cm, nặng khoảng 2,2 – 3,5kg. Thường được đúc nguyên khối. Súng lệnh thời Nguyễn còn có các chữ trên thân súng như “Lôi uy tả sở nhị bách lục thập hiệu”, “Báo Vĩnh Hưng”… Nhiều khẩu súng lệnh làm đơn giản, không có ký hiệu, dài ngắn khác nhau từ 30 – 40cm.
- Súng thần công. Thường có tên gọi như Đại Tướng quân, Thượng Tướng quân, Thần Cơ doanh…phổ biến hơn vào thời Nguyễn. Phần lớn súng thần công dài từ 40cm trở lên đến khoảng hơn 100cm. Đường kính ngoài của nòng súng từ 14 – 16cm, đường kính trong từ 3 – 8 cm, đường kính thân nơi lớn nhất từ 13 – 22cm, là phần chứa thuốc súng. Súng có cấu tạo gồm nòng súng lớn dần đến phần đuôi, quanh vành miệng nòng có đai dày, ngoài ra trên thân còn một vài đai khác nhằm giữ cho súng không bị vỡ khi đạn nổ. Lỗ tra ngòi ở vào khoảng 1/3 thân từ đuôi súng, giáp đó có tay xách hình vòng cung nhô cao (súng nhỏ có 1 tay xách ở giữa, còn súng lớn có hai cái đối xứng nhau. Súng thường không có tai chống giật mà có một rãnh cắt ngang đuôi súng, khớp với một bộ phận ở bệ súng giữ cho nòng không giật khi bắn. Đuôi súng là khối tròn. Trên súng thần công hay ghi tên súng, kích thước, cân nặng.
- Đạn súng lệnh, súng thần công: thường bằng đá hay đúc bằng gang, sắt. Hình cầu. Đạn đá đường kính từ 2,5 – 5,5cm, nặng từ 50 – 200gr, có viên lớn hơn. đạn sắt, gang kích thước lớn thường hơn, trung bình trên 10cm, là loại đạn của các khẩu thần công lớn. Ngoài ra thời Nguyễn còn có loại đạn bướm “hồ điệp…” có cấu tạo hai nửa cầu nồi kiền với nhau bởi 1 sợi dây xích dài khoảng 25 – 30cm. Khi bắn đạn bay ra giống đàn bướm bay, tính sát thương cao hơn nhiều.
* “Cửu vị thần công” thời Nguyễn. Theo sử sách, trước ngày Kinh đô Huế thất thủ (5.7.1885) tại Huế có 850 khẩu súng thần công. Nhưng sau sự kiện ấy, Pháp đã ra lệnh phá hủy và thu hồi kim loại. Đến nay Huế chỉ còn lưu giữ khoảng 60 khẩu thần công, đây là những cổ vật quý hiếm được đúc dưới thời Gia Long và Minh Mạng. Trong số này có “Cửu vị Thần công” - 9 khẩu đại bác vĩ đại bằng đồng được đúc vào đầu triều Nguyễn (1804) do những người thợ Phường Đúc Huế chế tác. Ngay sau khi hoàn thành chúng được đặt phía trước Hoàng Thành, phía trong hai cửa Thể Nhơn và Quảng Đức. Cửu vị thần công được chia làm hai nhóm: nhóm bên tả phía cửa Thể Nhơn có 4 khẩu đặt tên theo 4 mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông; nhóm bên hưũ phía cửa Quảng Đức có 5 khẩu đặt tên theo ngũ hành: Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ. Cả 9 khẩu đều được phong là “Thần oai vô địch thượng tướng quân” (được khắc bằng chữ Hán trên thân súng) dù cho đến hết thời Nguyễn chúng chưa tham gia trận mạc bao giờ!
Hình thức và cấu tạo: Đầu miệng súng hơi loe, phần đuôi phình ra được đúc kín gọi là khối hậu (chỗ chứa thuốc súng). Trên thân súng có 6 gờ nổi, trang trí 8 dải hoa văn chạy quanh thân. Giữa súng có gắn hai quai khắc hình hai con lân uốn cong hình dấu ngã. Cách quai 14cm có gờ nổi, trên gờ này khắc chữ Hán cẩn bạc, nội dung ghi công trạng toàn ban đốc công chế tạo súng. Ngoài ra trên thân mỗi súng khắc một bài minh nêu rõ lý do đúc súng vào năm Gia Long thứ 3 (1804).
Quy mô Cửu vị thần công: 9 khẩu đại bác đều dài 5,10m, chu vi vòng thân nơi lớn nhất đến 2,16m, đường kính nòng rộng 0,51m (khẩu kính 230mm), trọng lượng khẩu nhỏ nhất là 17.100 cân, lớn nhất là 18.400 cân.
Súng được trang trí các dải hoa văn tinh xảo ở phần thân, quai. Cả 9 khẩu đều đặt trên hệ thống giá đỡ bằng gỗ lim có bánh xe (thường gọi là bệ súng). Giá súng dài 2,75m, cao 0,73m, bánh xe bằng gỗ có viền sắt đường kính 0,62m, dày 0,22m. Mặt ngoài giá súng chạm khắc hình rồng, đầu rồng chạm nổi mắt lồi trông dữ tợn, nét chạm không cầu kỳ nhưng tinh tế. Riêng các trục quay có hình trụ dài 0,18m, đường kính 0,22m. mặt ngoài có ghi: bên phải là trọng lượng của súng, bên trái ghi cách nạp thuốc và sử dụng súng. Việc bắn súng rất phức tạp nên mỗi khẩu thần công phải có một khẩu đội 5 người phục vụ dưới quyền chỉ huy của một khẩu đội trưởng, đạn phải nạp qua miệng pháo, mất nhiều thời giờ mà tính sát thương không cao, chỉ có tác dụng phá vở công sự kiên cố và thành lũy.
Bên cạnh Cửu vị Thần công, ở Huế còn có 2 khẩu thần công đúc vào thời Minh Mạng (1834). Đây là hai khẩu đại pháo có khẩo kính 310mm, được đặt trên bệ xi măng. Súng dài 1,06m, thân súng có3 gờ chia làm 4 khoang không đều nhau, không có hoa văn. Trên gờ cuối cùng có lỗ điểm hỏa ghi hàng chữ Hán Ngự chế thần uy phá địch Đại tướng quân đệ nhất vị và cuối núm gờ nổi khắc hàng chữ Minh Mạng thập ngũ chú niên. So với Cửu vị Thần công hai khẩu đại pháo thời Minh Mạng không có chỉ dẫn cách bắn, cách dùng đạn cũng như ghi kích thước trọng lượng súng. Bên cạnh súng còn đặt một viên đạn tròn bằng đá đường kính 290mm.
Để đúc những khẩu Thần công lớn và nặng hàng ngàn cân cần có một hiệp thợ đúc có kỹ thuật hoàn thiện ở tất cả các khâu và sự phối hợp đồng bộ. Kỹ thuật đúc súng Thần công thời Nguyễn còn nổi tiếng về trình độ cao trong việc pha chế kim loại, trang trí hoa văn chữ khắc rõ ràng, sắc sảo, mang tính biểu tượng mạnh mẽ.
Vũ khí cổ Việt nam cho biết trang bị vũ khí cho quân đội thời phong kiến, loại bạch khí chiếm tỷ lệ áp đảo so với hỏa khí, vũ khí đánh gần là chính, bộ binh là quân chủ lực mang tính chất quyết định trên chiến trường. Các loại vũ khí bằng sắt chiếm số lượng lớn được chế tạo bằng phương pháp rèn đập thô sơ nhưng tỏ ra có hiệu quả “lấy đoản binh chế trường trận”. Những loại vũ khí này còn phản ánh một cách sinh động nghệ thuật quân sự Việt Nam là Chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích, lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều. Từ thời Lê Trung hưng và nhất là thời Nguyễn, hỏa khí loại lớn như súng thần công bắt đầu có mặt và ngày càng phổ biến. Tuy nhiên chức năng của chúng thường để báo hiệu lệnh hay để “phô trương”, thị uy chứ không hoặc ít sử dụng trong thực tế.
Nhà Nguyễn - thực dân Pháp
GS Phan Huy Lê:
Một vấn đề nữa cũng phải thảo luận, là việc nhà Nguyễn (thời Tự Đức) để mất nước trước cuộc xâm lăng của đế quốc Pháp. Kết luận trước đây cho rằng Tự Đức bạc nhược đầu hàng, phản bội dân tộc là chưa thỏa đáng, chưa khách quan. Ông và triều Nguyễn đã tìm mọi cách bảo vệ đất nước và cũng là bảo vệ vương triều đến cùng, nhưng do năng lực và nhãn quan chính trị nên không đề ra được đối sách đúng để giành thắng lợi trước một thế lực xâm lược hoàn toàn mới, mà lịch sử trước đây chưa để lại kinh nghiệm.
Trong cả khu vực Đông Nam Á và Đông Á, tất cả các quốc gia đều mất nước, hoặc thành thuộc địa, hoặc thành nửa thuộc địa. Chỉ riêng Nhật Bản và Thái Lan giữ được độc lập. Nhật Bản thời Minh Trị thực hiện cuộc cải cách lớn, nhưng tình hình kinh tế xã hội của Nhật có khác các nước phương Đông, bắt đầu từ TK XVII khi đóng cửa với bên ngoài nhưng bên trong phát triển kinh tế rất mạnh, tạo lập những tiền đề cho cuộc cải cách.
Thái Lan thì có cách ứng xử rất khôn ngoan, tận dụng được vị thế vùng đệm nằm giữa 2 thế lực đế quốc rất mạnh, Anh ở phía Ấn Độ, Pháp ở phía Đông Dương, lợi dụng được mâu thuẫn và cạnh tranh gay gắt này để duy trì thế độc lập tương đối, thực hiện được đường lối mềm mỏng trong bảo vệ chủ quyền quốc gia, tuy cũng có lúc phải chấp nhận sự lệ thuộc nào đó với thế lực đế quốc này hay đế quốc khác nhưng không bị mất nước. Vương triều Thái Lan sau đó cũng cải cách khá mạnh, duy trì chế độ quân chủ nhưng đi vào khuynh hướng phát triển tư bản chủ nghĩa khá sớm. Chỉ hai quốc gia đó thoát khỏi sự xâm chiếm và thống trị của đế quốc phương Tây.
Chúng ta cần có cái nhìn so sánh để làm sáng rõ hơn nguyên do mất nước cuối thế kỷ XIX. Nghĩa là, trong việc mất nước cuối TK XIX không thể phủ nhận trách nhiệm của triều Nguyễn là nhà nước quản lý đất nước, nhưng lúc phân tích nguyên nhân mất nước thì phải hết sức khách quan, toàn diện, đặt trong bối cảnh lịch sử mới của khu vực và thế giới, không nên quy kết một cách giản đơn.
Có xu hướng nhìn nhận rằng nhà Nguyễn không "mặn mà" với canh tân, đi ngược lại xu thế của thời đại thì sao, thưa GS?
- Nhiều nhà sử học đã đặt ra vấn đề này, và cách giải thích, phân tích, đánh giá cũng còn có sự khác biệt. Trong bối cảnh mới của thời đại thì canh tân là nhu cầu rất bức xúc. Chế độ nhà Nguyễn vẫn là quân chủ, trên hệ tư tưởng Nho giáo, kinh tế xã hội vẫn mang tính tiền tư bản – tiền công nghiệp, nên trên bình diện phát triển của thời đại đã bộc lộ sự chậm tiến, nếu không canh tân thì không đưa đất nước vượt ra khỏi tình trạng lỗi thời, không đủ tiềm lực để tồn tại độc lập. Canh tân thành nhu cầu quyết định sự tồn vong của đất nước, nhất là khi phải đầu đương đầu với một thế lực xâm lược hoàn toàn mới đến từ các đế quốc phương Tây ở trình độ chủ nghĩa tư bản và văn minh công nghiệp cao hơn hẳn ta.
Trong những đề nghị cải cách thời nhà Nguyễn cần phân biệt làm hai loại. Một loạt cải cách trên nền tảng không có gì đụng chạm tới kết cấu kinh tế xã hội đương thời, như khai hoang, làm thủy lợi, chẩn cứu dân nghèo... nghĩa là một số sửa đổi trên nền tảng bảo tồn của chế độ phong kiến, rất cần thiết nhưng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển mới của đất nước phù hợp với xu thế của thời đại..
Có những đề xuất canh tân vượt quá tầm nhìn trên, vươn tới sự phát triển cao của thời đại, tập trung chủ yếu thời Tự Đức, như những điều trần của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Đặng Huy Trứ, ba nhà cải cách có hệ thống nhất. Những cải cách đó không phủ định triều Nguyễn, chưa đụng chạm đến sự tồn tại của chế độ quân chủ, những người đề xuất cải cách đều trung thành với vương triều Nguyễn. Họ đề nghị mở cửa thông thưong, học tập công nghệ phương Tây, phát triển công thương nghiệp, cải cách giáo dục, củng cố quốc phòng...Những đề nghị canh tân đó sẽ tạo nên những chuyển biến về kinh tế xã hội để đưa đất nước vượt qua tình trạng lạc hậu và mở ra xu thế phát triển mới. Nhưng rất tiếc những đề nghị đó không được chấp nhận.
Trong các vua nhà Nguyễn, người có ý tưởng canh tân tương đối sớm với những suy tư về tình hình trong nước và cả tầm nhìn khu vực là Minh Mạng. Ông gửi nhiều phái đoàn ra ngoài, lý do là để mua hàng hóa, nhưng những nơi tới đều là căn cứ thương mại - quân sự của phương Tây. Ông có tầm nhìn hướng biển, có những thử nghiệm thành công kỹ thuật phương Tây như đóng tàu chạy hơi nước, dịch nhiều sách kỹ thuật phương Tây ra chữ Hán, mua vũ khí, củng cố hệ thống thành lũy... , rất chú ý đến việc phòng vệ ven biển. Đó là tầm nhìn chiến lược, nhưng Minh Mạng mới có những ý tưởng chứ chưa cụ thể hóa thành chủ trương biện pháp có hệ thống và chưa tập hợp được trong triều những người có đầu óc canh tân nên chưa thể biến ý tưởng thành hiện thực.
Còn những vấn đề khác nữa cũng sẽ được đề cập trong hội thảo, nhưng thời gian không cho phép đi sâu, chẳng hạn như về vai trò Nho giáo trong bối cảnh TK 19 thì đánh giá thế nào? Hay việc nhà Nguyễn có những thành tựu trong việc thống nhất đất nước, cải cách bộ máy hành chính tiến bộ,... nhưng lại không thu phục được lòng dân, tình hình xã hội bất ổn định triền miên, khởi nghĩa nông dân nhiều nhất so với các thời kỳ trước đây... Hay chính sách của nhà Nguyễn với tôn giáo thế nào? Còn rất nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.
Một vấn đề nữa cũng phải thảo luận, là việc nhà Nguyễn (thời Tự Đức) để mất nước trước cuộc xâm lăng của đế quốc Pháp. Kết luận trước đây cho rằng Tự Đức bạc nhược đầu hàng, phản bội dân tộc là chưa thỏa đáng, chưa khách quan. Ông và triều Nguyễn đã tìm mọi cách bảo vệ đất nước và cũng là bảo vệ vương triều đến cùng, nhưng do năng lực và nhãn quan chính trị nên không đề ra được đối sách đúng để giành thắng lợi trước một thế lực xâm lược hoàn toàn mới, mà lịch sử trước đây chưa để lại kinh nghiệm.
Trong cả khu vực Đông Nam Á và Đông Á, tất cả các quốc gia đều mất nước, hoặc thành thuộc địa, hoặc thành nửa thuộc địa. Chỉ riêng Nhật Bản và Thái Lan giữ được độc lập. Nhật Bản thời Minh Trị thực hiện cuộc cải cách lớn, nhưng tình hình kinh tế xã hội của Nhật có khác các nước phương Đông, bắt đầu từ TK XVII khi đóng cửa với bên ngoài nhưng bên trong phát triển kinh tế rất mạnh, tạo lập những tiền đề cho cuộc cải cách.
Thái Lan thì có cách ứng xử rất khôn ngoan, tận dụng được vị thế vùng đệm nằm giữa 2 thế lực đế quốc rất mạnh, Anh ở phía Ấn Độ, Pháp ở phía Đông Dương, lợi dụng được mâu thuẫn và cạnh tranh gay gắt này để duy trì thế độc lập tương đối, thực hiện được đường lối mềm mỏng trong bảo vệ chủ quyền quốc gia, tuy cũng có lúc phải chấp nhận sự lệ thuộc nào đó với thế lực đế quốc này hay đế quốc khác nhưng không bị mất nước. Vương triều Thái Lan sau đó cũng cải cách khá mạnh, duy trì chế độ quân chủ nhưng đi vào khuynh hướng phát triển tư bản chủ nghĩa khá sớm. Chỉ hai quốc gia đó thoát khỏi sự xâm chiếm và thống trị của đế quốc phương Tây.
Chúng ta cần có cái nhìn so sánh để làm sáng rõ hơn nguyên do mất nước cuối thế kỷ XIX. Nghĩa là, trong việc mất nước cuối TK XIX không thể phủ nhận trách nhiệm của triều Nguyễn là nhà nước quản lý đất nước, nhưng lúc phân tích nguyên nhân mất nước thì phải hết sức khách quan, toàn diện, đặt trong bối cảnh lịch sử mới của khu vực và thế giới, không nên quy kết một cách giản đơn.
Có xu hướng nhìn nhận rằng nhà Nguyễn không "mặn mà" với canh tân, đi ngược lại xu thế của thời đại thì sao, thưa GS?
- Nhiều nhà sử học đã đặt ra vấn đề này, và cách giải thích, phân tích, đánh giá cũng còn có sự khác biệt. Trong bối cảnh mới của thời đại thì canh tân là nhu cầu rất bức xúc. Chế độ nhà Nguyễn vẫn là quân chủ, trên hệ tư tưởng Nho giáo, kinh tế xã hội vẫn mang tính tiền tư bản – tiền công nghiệp, nên trên bình diện phát triển của thời đại đã bộc lộ sự chậm tiến, nếu không canh tân thì không đưa đất nước vượt ra khỏi tình trạng lỗi thời, không đủ tiềm lực để tồn tại độc lập. Canh tân thành nhu cầu quyết định sự tồn vong của đất nước, nhất là khi phải đầu đương đầu với một thế lực xâm lược hoàn toàn mới đến từ các đế quốc phương Tây ở trình độ chủ nghĩa tư bản và văn minh công nghiệp cao hơn hẳn ta.
Trong những đề nghị cải cách thời nhà Nguyễn cần phân biệt làm hai loại. Một loạt cải cách trên nền tảng không có gì đụng chạm tới kết cấu kinh tế xã hội đương thời, như khai hoang, làm thủy lợi, chẩn cứu dân nghèo... nghĩa là một số sửa đổi trên nền tảng bảo tồn của chế độ phong kiến, rất cần thiết nhưng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển mới của đất nước phù hợp với xu thế của thời đại..
Có những đề xuất canh tân vượt quá tầm nhìn trên, vươn tới sự phát triển cao của thời đại, tập trung chủ yếu thời Tự Đức, như những điều trần của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Đặng Huy Trứ, ba nhà cải cách có hệ thống nhất. Những cải cách đó không phủ định triều Nguyễn, chưa đụng chạm đến sự tồn tại của chế độ quân chủ, những người đề xuất cải cách đều trung thành với vương triều Nguyễn. Họ đề nghị mở cửa thông thưong, học tập công nghệ phương Tây, phát triển công thương nghiệp, cải cách giáo dục, củng cố quốc phòng...Những đề nghị canh tân đó sẽ tạo nên những chuyển biến về kinh tế xã hội để đưa đất nước vượt qua tình trạng lạc hậu và mở ra xu thế phát triển mới. Nhưng rất tiếc những đề nghị đó không được chấp nhận.
Trong các vua nhà Nguyễn, người có ý tưởng canh tân tương đối sớm với những suy tư về tình hình trong nước và cả tầm nhìn khu vực là Minh Mạng. Ông gửi nhiều phái đoàn ra ngoài, lý do là để mua hàng hóa, nhưng những nơi tới đều là căn cứ thương mại - quân sự của phương Tây. Ông có tầm nhìn hướng biển, có những thử nghiệm thành công kỹ thuật phương Tây như đóng tàu chạy hơi nước, dịch nhiều sách kỹ thuật phương Tây ra chữ Hán, mua vũ khí, củng cố hệ thống thành lũy... , rất chú ý đến việc phòng vệ ven biển. Đó là tầm nhìn chiến lược, nhưng Minh Mạng mới có những ý tưởng chứ chưa cụ thể hóa thành chủ trương biện pháp có hệ thống và chưa tập hợp được trong triều những người có đầu óc canh tân nên chưa thể biến ý tưởng thành hiện thực.
Còn những vấn đề khác nữa cũng sẽ được đề cập trong hội thảo, nhưng thời gian không cho phép đi sâu, chẳng hạn như về vai trò Nho giáo trong bối cảnh TK 19 thì đánh giá thế nào? Hay việc nhà Nguyễn có những thành tựu trong việc thống nhất đất nước, cải cách bộ máy hành chính tiến bộ,... nhưng lại không thu phục được lòng dân, tình hình xã hội bất ổn định triền miên, khởi nghĩa nông dân nhiều nhất so với các thời kỳ trước đây... Hay chính sách của nhà Nguyễn với tôn giáo thế nào? Còn rất nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.
Đọc "Những nhà cải cách Việt Nam"
Trong danh sách "Những nhà cải cách Việt Nam" do Lê Minh Quốc liệt kê có
1. Lý Công Uẩn: Vua Thái Tổ lưu tâm về việc sửa sang trong nước: đổi phép cũ của nhà Tiền Lê; chia nước ra làm 24 lộ, gọi Hoan Châu và Ái Châu là trại. Lại định ra 6 hạng thuế là: thuế ruộng, đầm, ao; thuế đất trồng dâu và bãi phù sa; thuế sản vật ở núi; thuế mắm muối đi quan Ải quan; thuế sừng tê giác, ngà voi và hương ở trên mạn núi xuống; thuế tre gỗ hoa quả. Vua cho những bậc công chúa coi việc trưng thu các thứ thuế ấy.
2. Trần Thủ Độ
3. Hồ Quý Ly
4. Lê Thánh Tông: Trong lúc trị vì, Lê Thánh Tông đã đề xuất nhiều cải cách trong hệ thống quân sự, hành chính, kinh tế, giáo dục và luật pháp. Ngoài ra, ông đã mở mang bờ cõi Đại Việt bằng cách đánh chiếm kinh đô của vương quốc Chăm Pa (1471), sáp nhập một phần lãnh thổ Chăm Pa vào Đại Việt; đồng thời có cuộc hành quân về phía Tây đất nước (1479).
5. Lương Đắc Bằng
6. Giáp Hải
7. Nguyễn Quý Đức
8. Trịnh Cương
9. Bùi Sĩ Tiêm
10. Nguyễn Cư Trinh
11. Phạm Phú Thứ
12. Đặng Huy Trứ
13. Nguyễn Trường Tộ
14. Bùi Viện
15. Nguyễn Lộ Trạch
16. Trần Quý Cáp
17. Nguyễn Văn Linh
Trong danh sách 17 nhà cải cách được liệt kê ở trên thì những nhà cải cách thành công, có ảnh hưởng lớn đến việc thay đổi xã hội là:
1. Lý Công Uẩn
2. Trần Thủ Độ
3. Lê Thánh Tông
4. Trịnh Cương
5. Nguyễn Văn Linh
Danh sách trên cho thấy rằng những nhà cải cách thành công đều là những người đang nắm quyền lực, có ảnh hưởng đến toàn thể xã hội. Do đó, những đề xuất cải cách của họ được đưa vào cuộc sống một cách nhanh chóng và rộng rãi. Một trường hợp ngoại lệ đó là Hồ Quý Ly, nhiều cải cách của ông đáng tiếc là không thành công ví dụ như sử dụng tiền giấy bởi vì lý do kỹ thuật.
Những nhà cải cách đều là giới sĩ phu (trí thức) được đào tạo tốt do đó mới có được tầm nhìn sâu rộng về các vấn đề xã hội và đề xuất công cuộc cải cách toàn diện. Những người có cơ hội học hỏi ở nước ngoài thường đề xuất những cải cách mang tính đột phá ví dụ như Nguyễn Trường Tộ nhưng họ cũng chính là người đi quá xa thời đại khiến cho những đề xuất không được chấp nhận.
Những đề xuất cải cách cần phải là nguồn lực để hiện thực hóa. Nó giải thích lý do vì sao những nhà cải cách thành công đều là những nhà chính trị nắm quyền lực trong tay bởi vì chính họ mới có đủ khả năng để huy động nguồn lực từ bên dưới thực hiện công cuộc cải cách sâu rộng.
Những cuộc cải cách phải phù hợp với trình độ phát triển xã hội thời bấy giờ. Lịch sử cho thấy rằng những cuộc cải cách đi quá xa thời đại đều rơi vào trường hợp thất bại. Nguyễn Trường Tộ là một ví dụ điển hình khi những cải cách sâu rộng do ông đề xướng đều bị bác bỏ một cách thẳng thừng. Nguyên do là vua tôi triều Nguyễn không hiểu và cũng không có khả năng hiện thực hóa những bản điều trần đó.
Những đề xướng cải cách thời nào cũng có, nó cho thấy rằng trong xã hội luôn xuất hiện những người trí thức (sĩ phu) có tầm nhìn đi trước thời đại mà họ đang sống. Tuy nhiên việc những đề xuất cải cách có được thực thi hay không là một vấn đề phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác.
1. Lý Công Uẩn: Vua Thái Tổ lưu tâm về việc sửa sang trong nước: đổi phép cũ của nhà Tiền Lê; chia nước ra làm 24 lộ, gọi Hoan Châu và Ái Châu là trại. Lại định ra 6 hạng thuế là: thuế ruộng, đầm, ao; thuế đất trồng dâu và bãi phù sa; thuế sản vật ở núi; thuế mắm muối đi quan Ải quan; thuế sừng tê giác, ngà voi và hương ở trên mạn núi xuống; thuế tre gỗ hoa quả. Vua cho những bậc công chúa coi việc trưng thu các thứ thuế ấy.
2. Trần Thủ Độ
3. Hồ Quý Ly
4. Lê Thánh Tông: Trong lúc trị vì, Lê Thánh Tông đã đề xuất nhiều cải cách trong hệ thống quân sự, hành chính, kinh tế, giáo dục và luật pháp. Ngoài ra, ông đã mở mang bờ cõi Đại Việt bằng cách đánh chiếm kinh đô của vương quốc Chăm Pa (1471), sáp nhập một phần lãnh thổ Chăm Pa vào Đại Việt; đồng thời có cuộc hành quân về phía Tây đất nước (1479).
5. Lương Đắc Bằng
6. Giáp Hải
7. Nguyễn Quý Đức
8. Trịnh Cương
9. Bùi Sĩ Tiêm
10. Nguyễn Cư Trinh
11. Phạm Phú Thứ
12. Đặng Huy Trứ
13. Nguyễn Trường Tộ
14. Bùi Viện
15. Nguyễn Lộ Trạch
16. Trần Quý Cáp
17. Nguyễn Văn Linh
Trong danh sách 17 nhà cải cách được liệt kê ở trên thì những nhà cải cách thành công, có ảnh hưởng lớn đến việc thay đổi xã hội là:
1. Lý Công Uẩn
2. Trần Thủ Độ
3. Lê Thánh Tông
4. Trịnh Cương
5. Nguyễn Văn Linh
Danh sách trên cho thấy rằng những nhà cải cách thành công đều là những người đang nắm quyền lực, có ảnh hưởng đến toàn thể xã hội. Do đó, những đề xuất cải cách của họ được đưa vào cuộc sống một cách nhanh chóng và rộng rãi. Một trường hợp ngoại lệ đó là Hồ Quý Ly, nhiều cải cách của ông đáng tiếc là không thành công ví dụ như sử dụng tiền giấy bởi vì lý do kỹ thuật.
Những nhà cải cách đều là giới sĩ phu (trí thức) được đào tạo tốt do đó mới có được tầm nhìn sâu rộng về các vấn đề xã hội và đề xuất công cuộc cải cách toàn diện. Những người có cơ hội học hỏi ở nước ngoài thường đề xuất những cải cách mang tính đột phá ví dụ như Nguyễn Trường Tộ nhưng họ cũng chính là người đi quá xa thời đại khiến cho những đề xuất không được chấp nhận.
Những đề xuất cải cách cần phải là nguồn lực để hiện thực hóa. Nó giải thích lý do vì sao những nhà cải cách thành công đều là những nhà chính trị nắm quyền lực trong tay bởi vì chính họ mới có đủ khả năng để huy động nguồn lực từ bên dưới thực hiện công cuộc cải cách sâu rộng.
Những cuộc cải cách phải phù hợp với trình độ phát triển xã hội thời bấy giờ. Lịch sử cho thấy rằng những cuộc cải cách đi quá xa thời đại đều rơi vào trường hợp thất bại. Nguyễn Trường Tộ là một ví dụ điển hình khi những cải cách sâu rộng do ông đề xướng đều bị bác bỏ một cách thẳng thừng. Nguyên do là vua tôi triều Nguyễn không hiểu và cũng không có khả năng hiện thực hóa những bản điều trần đó.
Những đề xướng cải cách thời nào cũng có, nó cho thấy rằng trong xã hội luôn xuất hiện những người trí thức (sĩ phu) có tầm nhìn đi trước thời đại mà họ đang sống. Tuy nhiên việc những đề xuất cải cách có được thực thi hay không là một vấn đề phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác.
Trích Việt Nam sử lược
Xem cái chân tượng của vua Dực Tông như thế, thì ngài không phải là người to béo vạm vỡ, mà cũng không phải là ông vua tàn ác bạo ngược như người ta thường nói. Chỉ vì ngài làm vua về một thời đại khó khăn, trong nước lắm việc, mà những người phò tá thì tuy có người thanh liêm như ông Trương Đăng Quế, ông Vũ Trọng Bình, trung liệt như ông Phan Thanh Giản, ông Nguyễn Tri Phương, ông Hoàng Diệu, v.v.... nhưng mà các ông ấy đều là người cũ, không am hiểu thời thế mới. Vả lại các thế lực lúc bấy giờ kém hèn quá, dẫu có muốn cải cách duy tân, cũng không kịp nữa, cho nên mọi việc đều hỏng cả.
2. Đình Thần.
Đình thần là các quan ở trong Triều giúp vua để lo việc nước. Nhưng lúc bấy giờ tình thế đã nguy ngập lắm, vì từ đầu thập cửu thế kỷ trở đi, sự sinh hoạt và học thuật của thiên hạ đã tiến bộ nhiều mà sự cạnh tranh của các nước cũng kịch liệt hơn trước. Thế mà những người giữ cái trách nhiệm chính trị nước mình, chỉ chăm việc văn chương, khéo nghề nghiên bút, bàn đến quốc sự thì phi Nghiêu, Thuấn lại Hạ, Thương, Chu, việc mấy nghìn năm trước cứ đem làm gương cho thời hiện tại, rồi cứ nghễu nghện tự xưng mình hơn người, cho thiên hạ là dã man.
Ấy, các đình thần lúc bấy giờ phần nhiều là những người như thế cả. Tuy có một vài người đã đi ra ngoài, trông thấy cảnh tượng thiên hạ, về nói lại, thì các cụ ở nhà cho là nói bậy, làm hủy hoại mất kỷ cương! Thành ra người không biết thì cứ một niềm tự đắc, người biết thì phải làm câm làm điếc, không thở ra với ai được, phải ngồi khoanh tay mà chịu.
Xem như mấy năm về sau, nhà vua thường có hỏi đến việc phú quốc cường binh, các quan bàn hết lẽ nọ lẽ kia, nào chiến, nào thủ, mà chẳng thấy làm được việc gì ra trò. Vả thời bấy giờ, cũng đã có người hiểu rõ thời thế, chịu đi du học và muốn thay đổi chính trị. Như năm bính dần (1866) là
Ta thường trông thấy có cái tranh vẽ một người to lớn vạm vỡ, mặt mũi dữ tợn mà mặc áo đội mũ không ra lối lăng gì cả, ở dưới cái tranh có chữ đề là vua Tự Đức. Cái tranh ấy chắc là của một người nào tưởng tượng mà vẽ ra chứ không phải là chân dung của ngài. Vì là thủa trước chỉ trừ những quan đại thần và những người được vào hầu cận, vua ta không cho ai trông thấy mặt, mà cũng không bao giờ có hình ảnh gì cả.
Năm Tự Đức thứ 19, có mấy người ở Nghệ An là Nguyễn Đức Hậu, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Điều đi du học phương tây. Sau Nguyễn Trường Tộ về làm mấy bài điều trần, kể hết cái tình thế nước mình, và cái cảnh tượng các nước, rồi xin nhà vua phải mau mau cải cách mọi việc, không thì mất nước. Vua giao những tờ điều trần ấy cho các quan duyệt nghị. Đình thần đều lấy làm sự nói càn, không ai chịu nghe.
Năm mậu thìn (1868) là năm Tự Đức thứ 21, có người ở Ninh Bình tên là Đinh Văn Điền dâng tờ điều trần nói nên đặt doanh điền, khai mỏ vàng, làm tàu hỏa, cho người các nước phương tây vào buôn bán, luyện tập sĩ tốt để phòng khi chiến thủ, thêm lương thực cho quan quân, bớt sưu dịch cho dân sự, thưởng cho những người có công, nuôi nấng những người bị thương, tàn tật, v.v.... Đại để là những điều ích quốc lợi dân cả, thế mà đình thần cho là không hợp với thời thế, rồi bỏ không dùng.
Các quan đi sứ các nơi về tâu bày mọi sư, vua hỏi đến đình thần thì mọi người đều bác đi, cái gì cũng cho là không hợp thời. Năm kỷ mão (1879) là năm Tự Đức thứ 32, Nguyễn Hiệp đi sứ Tiêm La về nói rằng khi người nước Anh Cát Lợi mới sang xin thông thương, thì nước Tiê m La lập điều ước cho ngay, thành ra người Anh không có cớ gì mà sinh sự để lấy đất, rồi Tiêm La lại cho nước Pháp, nước Phổ, nước Ý, nước Mỹ v.v... đặt lĩnh sự để coi việc buôn bán. Như thế mọi người đều có quyền lợi không ai hiếp chế được mình. Năm tân tị (1881) là năm Tự Đức thứ 34, có Lê Đĩnh đi sứ ở Hương Cảng về, tâu rằng: các nước Thái Tây mà phú cường là chỉ cốt ở việc binh và việc buôn bán. Lấy binh lính mà bênh vực việc buôn bán, lấy việc buôn bán mà nuôi binh lính.
Gần đây Nhật Bản theo các nước Thái Tây cho người đi buôn bán khắp cả mọi nơi. Nước Tàu cũng bắt chước cho người ngoại quốc ra vào buôn bán. Nước ta, người khôn ngoan, lại có lắm sản vật, nên theo người ta mà làm thì cũng có thể giữ được quyền độc lập của nước nhà.
Năm ấy lại có quan hàn lâm viện tu soạn là Phan Liêm làm sớ mật tâu việc mở sự buôn bán, sự chung vốn lập hội, và xin cho người đi học nghề khai mỏ. Giao cho đình thần xét, các quan đều bàn rằng việc buôn bán không tiện, còn việc khác thì xin đòi hỏi các tỉnh xem thể nào, rồi sẽ xét lại. Ấy cũng là một cách làm cho trôi chuyện, chứ không ai muốn thay đổi thói cũ chút gì cả. Nhân việc đó vua Dực Tông khuyên rằng các quan xét việc thì nên cẩn thận và suy nghĩ cho chín, nhưng cũng nên làm thế nào cho tiến bộ, chứ không tiến, thì tức là thoái vậy.
197
Xem lời ấy thì không phải là vua không muốn thay đổi. Chỉ vì vua ở trong cung điện, việc đời không biết rõ, phải lấy các quan làm tai làm mắt, mà các quan thì lại số người biết thì ít, số người không biết thì nhiều. Những người có quyền tước thì lắm người trông không rõ, nghe không thấy, chỉ một niềm giữ thói cũ cho tiện việc mình. Lại có lắm người tự nghĩ rằng mình đã quyền cả ngôi cao, thì tất là tài giỏi hơn người, chứ không hiểu rằng cái tài giỏi không cần phải nhiều tuổi, sự khôn ngoan không phải làm quan to hay là quan nhỏ. Cái phẩm giá con người ta cốt ở tư tưởng, học thức, chứ không phải ở tiền của hay là ở quyền tước.
Đến khi nước Pháp đã sang lấy đất Nam Kỳ, đã ra đánh Bắc Kỳ, tình thế nguy cấp đến nơi rồi, thế mà cứ khư khư giữ lấy thói cổ, hễ ai nói đến sự gì hơi mới một tí, thì bác đi. Như thế thì làm thế nào mà không hỏng việc được.
Đã hay rằng vua có trách nhiệm vua, quan có trách nhiệm quan, dẫu thế nào vua Dực Tông cũng không tránh khỏi cái lỗi với nước nhà, nhưng mà xét cho xác ly, thì cái lỗi của đình thần lúc bấy giờ cũng không nhỏ vậy.
2. Đình Thần.
Đình thần là các quan ở trong Triều giúp vua để lo việc nước. Nhưng lúc bấy giờ tình thế đã nguy ngập lắm, vì từ đầu thập cửu thế kỷ trở đi, sự sinh hoạt và học thuật của thiên hạ đã tiến bộ nhiều mà sự cạnh tranh của các nước cũng kịch liệt hơn trước. Thế mà những người giữ cái trách nhiệm chính trị nước mình, chỉ chăm việc văn chương, khéo nghề nghiên bút, bàn đến quốc sự thì phi Nghiêu, Thuấn lại Hạ, Thương, Chu, việc mấy nghìn năm trước cứ đem làm gương cho thời hiện tại, rồi cứ nghễu nghện tự xưng mình hơn người, cho thiên hạ là dã man.
Ấy, các đình thần lúc bấy giờ phần nhiều là những người như thế cả. Tuy có một vài người đã đi ra ngoài, trông thấy cảnh tượng thiên hạ, về nói lại, thì các cụ ở nhà cho là nói bậy, làm hủy hoại mất kỷ cương! Thành ra người không biết thì cứ một niềm tự đắc, người biết thì phải làm câm làm điếc, không thở ra với ai được, phải ngồi khoanh tay mà chịu.
Xem như mấy năm về sau, nhà vua thường có hỏi đến việc phú quốc cường binh, các quan bàn hết lẽ nọ lẽ kia, nào chiến, nào thủ, mà chẳng thấy làm được việc gì ra trò. Vả thời bấy giờ, cũng đã có người hiểu rõ thời thế, chịu đi du học và muốn thay đổi chính trị. Như năm bính dần (1866) là
Ta thường trông thấy có cái tranh vẽ một người to lớn vạm vỡ, mặt mũi dữ tợn mà mặc áo đội mũ không ra lối lăng gì cả, ở dưới cái tranh có chữ đề là vua Tự Đức. Cái tranh ấy chắc là của một người nào tưởng tượng mà vẽ ra chứ không phải là chân dung của ngài. Vì là thủa trước chỉ trừ những quan đại thần và những người được vào hầu cận, vua ta không cho ai trông thấy mặt, mà cũng không bao giờ có hình ảnh gì cả.
Năm Tự Đức thứ 19, có mấy người ở Nghệ An là Nguyễn Đức Hậu, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Điều đi du học phương tây. Sau Nguyễn Trường Tộ về làm mấy bài điều trần, kể hết cái tình thế nước mình, và cái cảnh tượng các nước, rồi xin nhà vua phải mau mau cải cách mọi việc, không thì mất nước. Vua giao những tờ điều trần ấy cho các quan duyệt nghị. Đình thần đều lấy làm sự nói càn, không ai chịu nghe.
Năm mậu thìn (1868) là năm Tự Đức thứ 21, có người ở Ninh Bình tên là Đinh Văn Điền dâng tờ điều trần nói nên đặt doanh điền, khai mỏ vàng, làm tàu hỏa, cho người các nước phương tây vào buôn bán, luyện tập sĩ tốt để phòng khi chiến thủ, thêm lương thực cho quan quân, bớt sưu dịch cho dân sự, thưởng cho những người có công, nuôi nấng những người bị thương, tàn tật, v.v.... Đại để là những điều ích quốc lợi dân cả, thế mà đình thần cho là không hợp với thời thế, rồi bỏ không dùng.
Các quan đi sứ các nơi về tâu bày mọi sư, vua hỏi đến đình thần thì mọi người đều bác đi, cái gì cũng cho là không hợp thời. Năm kỷ mão (1879) là năm Tự Đức thứ 32, Nguyễn Hiệp đi sứ Tiêm La về nói rằng khi người nước Anh Cát Lợi mới sang xin thông thương, thì nước Tiê m La lập điều ước cho ngay, thành ra người Anh không có cớ gì mà sinh sự để lấy đất, rồi Tiêm La lại cho nước Pháp, nước Phổ, nước Ý, nước Mỹ v.v... đặt lĩnh sự để coi việc buôn bán. Như thế mọi người đều có quyền lợi không ai hiếp chế được mình. Năm tân tị (1881) là năm Tự Đức thứ 34, có Lê Đĩnh đi sứ ở Hương Cảng về, tâu rằng: các nước Thái Tây mà phú cường là chỉ cốt ở việc binh và việc buôn bán. Lấy binh lính mà bênh vực việc buôn bán, lấy việc buôn bán mà nuôi binh lính.
Gần đây Nhật Bản theo các nước Thái Tây cho người đi buôn bán khắp cả mọi nơi. Nước Tàu cũng bắt chước cho người ngoại quốc ra vào buôn bán. Nước ta, người khôn ngoan, lại có lắm sản vật, nên theo người ta mà làm thì cũng có thể giữ được quyền độc lập của nước nhà.
Năm ấy lại có quan hàn lâm viện tu soạn là Phan Liêm làm sớ mật tâu việc mở sự buôn bán, sự chung vốn lập hội, và xin cho người đi học nghề khai mỏ. Giao cho đình thần xét, các quan đều bàn rằng việc buôn bán không tiện, còn việc khác thì xin đòi hỏi các tỉnh xem thể nào, rồi sẽ xét lại. Ấy cũng là một cách làm cho trôi chuyện, chứ không ai muốn thay đổi thói cũ chút gì cả. Nhân việc đó vua Dực Tông khuyên rằng các quan xét việc thì nên cẩn thận và suy nghĩ cho chín, nhưng cũng nên làm thế nào cho tiến bộ, chứ không tiến, thì tức là thoái vậy.
197
Xem lời ấy thì không phải là vua không muốn thay đổi. Chỉ vì vua ở trong cung điện, việc đời không biết rõ, phải lấy các quan làm tai làm mắt, mà các quan thì lại số người biết thì ít, số người không biết thì nhiều. Những người có quyền tước thì lắm người trông không rõ, nghe không thấy, chỉ một niềm giữ thói cũ cho tiện việc mình. Lại có lắm người tự nghĩ rằng mình đã quyền cả ngôi cao, thì tất là tài giỏi hơn người, chứ không hiểu rằng cái tài giỏi không cần phải nhiều tuổi, sự khôn ngoan không phải làm quan to hay là quan nhỏ. Cái phẩm giá con người ta cốt ở tư tưởng, học thức, chứ không phải ở tiền của hay là ở quyền tước.
Đến khi nước Pháp đã sang lấy đất Nam Kỳ, đã ra đánh Bắc Kỳ, tình thế nguy cấp đến nơi rồi, thế mà cứ khư khư giữ lấy thói cổ, hễ ai nói đến sự gì hơi mới một tí, thì bác đi. Như thế thì làm thế nào mà không hỏng việc được.
Đã hay rằng vua có trách nhiệm vua, quan có trách nhiệm quan, dẫu thế nào vua Dực Tông cũng không tránh khỏi cái lỗi với nước nhà, nhưng mà xét cho xác ly, thì cái lỗi của đình thần lúc bấy giờ cũng không nhỏ vậy.
Vì sao Nguyễn Trường Tộ thất bại?
(Đọc lại bài này thấy tư duy thời đó về diễn tiến lịch sử vẫn còn nông cạn nhưng lưu lại đây để làm tư liệu về sau).
Nguyễn Trường Tộ thông minh xuất chúng
Nguyễn Trường Tộ sinh ra trước khi quân Pháp chính thức xâm chiếm Việt Nam (1858) đúng 30 năm. Vào năm 1858, khi hải quân Pháp đổ bộ vào cảng Đà Nẵng và sau đó xâm chiếm Sài Gòn thì ông được giám mục Gauthier đưa qua Hương Cảng, Singapore, Thuỵ Sĩ. Trên đường đi ông có ghé Roma yết kiến Giáo hoàng rồi cuối cùng sang Paris theo học trong gần 2 năm.
Với tư chất là một người thông minh, có hiểu biết sâu rộng về nền văn hóa Việt Nam, là người có khả năng hấp thu những tư tưởng mới, những tinh hoa văn hóa của nhân loại, trong thời gian ngắn ngủi này, ông đã miệt mài học tập tiếp thu tri thức khoa học hiện đại, tìm hiểu thực tế xã hội phương Tây, với mong muốn trở về giúp ích cho đất nước.
Để dễ dàng hình dung, chúng ta hãy dùng một hình tượng xã hội phong kiến Việt Nam lúc bấy giờ đang bị sống trong một căn nhà là một thể chế chính trị phong kiến tập quyền, đứng đầu là vua Nguyễn. Căn nhà ấy được xây dựng trên nền tảng tư tưởng Nho giáo rất lạc hậu và bảo thủ so với trào lưu tư tưởng tiến bộ của phương Tây lúc bấy giờ.
Một du học sinh thông minh và đỉnh ngộ như lúc 30 tuổi được tiếp thu những tư tưởng tinh hoa của thế giới phương Tây đã cảm thấy như được "khai sáng". Ông nghĩ rằng chế độ phong kiến VN cần phải thay đổi, học tập và áp dụng những tư tưởng phương Tây để bắt kịp với thế giới. Chính vì thế khi trở về nước, trăn trở những những tụt hậu của đất nước lúc bấy giờ ông đã đã liên tiếp gửi lên triều đình Huế 59 bản điều trần đề xuất canh tân xây dựng đất nước giàu mạnh. Gần sáu chục bản điều trần này đề cập đủ mọi lĩnh vực, các mặt chủ yếu:
* Về mặt kinh tế: ông quan tâm đến công, nông, thương nghiệp. Mở mang buôn bán trong nước và giao thương với nước ngoài, mời các công ty nước ngoài đến giúp ta khai thác tài lợi, sửa đổi thuế khoá làm sao cho "nước giàu dân cũng giàu"....
* Về mặt văn hóa - giáo dục: ông đề xuất cải cách phong tục, chủ trương coi trọng dân, sửa đổi chế độ thi cử mở mang việc học hành, thay đổi nội dung giáo dục, lấy quốc âm thay thế chữ Hán, lập trại tế bần...
* Về mặt ngoại giao: ông phân tích cho triều đình thấy rõ cục diện chính trị trên toàn thế giới thời đó, những mâu thuẫn về quyền lợi giữa Pháp với Anh và Tây Ban Nha, khuyên triều đình nên ngoại giao trực tiếp với chính phủ Pháp tìm cách ngăn chặn âm mưu xâm lược của bọn Pháp bên này, khéo léo chọn thời cơ lấy lại 6 tỉnh Nam Kỳ, xác lập "tư thế làm chủ đón khách"....
* Về mặt quân sự: thời đó, tuy ông "chủ hoà" nhưng không có tư tưởng "chủ hàng" một cách nguyên tắc. Ông khuyên triều đình cải tu võ bị, trọng võ trọng văn, ưu ái người lính, biên soạn binh pháp, đào tạo sĩ quan, mua sắm tàu thuyền vũ khí, xây dựng phòng tuyến cả ở thành thị lẫn nông thôn, đề phòng quân Pháp xâm lược lan ra cả nước...
Những kiến nghị của Nguyễn Trường Tộ thật sự mang lại một bước đột phá mới trong nhận thức của giới trí thức tinh hoa lúc bấy giờ.
Học giả Lê Thước phê bình công nghiệp bình sinh của ông:
"...Nguyễn Trường Tộ là nhà khoa học, nhà chính trị và cũng là nhà tân học nước ta xưa. Tư tưởng và kiến thức của tiên sinh hơn người đồng thời muôn nghìn."
Tuy nhiên ông đã thất bại trong việc thuyết phục vua quan nhà Nguyễn tin vào những kiến nghị canh tân của mình. Lịch sử VN ghi nhận lại rằng triều đình thời vua Tự Đức cũng không hề quan tâm.
http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/ImageView.aspx?ThumbnailID=20992
Mộ "nhà cải cách không gặp thời" Nguyễn Trường Tộ
Một nhà nghiên cứu đã nhận xét triều đình thời vua Tự Đức: "Vì đầu óc bảo thủ, vì sự thờ ơ, vô trách nhiệm đối với dân với nước mà vua quan triều đình bỏ qua những chủ trương táo bạo, đúng đắn vào lúc đất nước đang cần mạnh lên hơn bao giờ hết".
Có một vấn đề cần đặt ra ở đây đó chính là tư duy và sự suy nghĩ của một người không thể vượt ra khỏi nền giáo dục, văn hóa mà người đó nhận thức được.
Vua Tự Đức hay bộ máy quan lại trong triều đình ông cũng thế, trước những bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ, họ có hai sự lựa chọn.
1. Chấp nhận bản điều trần của ông, mở cửa đất nước cho người Pháp và những người ngoại quốc vào giao thương với Việt Nam
2. Bác bỏ bản điều trần của ông, đóng cửa biên giới, thực hiện chính sách "bế quan tỏa cảng".
Đứng ở thời điểm hiện tại, nhìn về quá khứ mỗi người chúng ta dễ dàng nhận thấy sự sai lầm của vua quan triều Nguyễn lúc bấy giờ trong việc "bế quan tỏa cảng". Thế nhưng dưới một cái nhìn khách quan, nếu như với suy nghĩ của triều đình thời Nguyễn lúc bấy giờ thì rõ ràng việc để cho những người ngoại quốc tự do ra vào đất nước và lãnh thổ của mình sẽ gây ra nhiều mối bất lợi. Rõ ràng là với suy nghĩ và nhận thức của vua quan lúc bấy giờ, họ không thể nào hình dung ra được khi thực hiện những điều trong bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ thì đất nước sẽ phát triển, còn ngược lại thì sẽ bị thực dân Pháp xâm lược.
Một con người, dù đó là vua thì cũng không thể vượt ra khỏi nhận thức về mặt tư tưởng so với thời đại mình đang sống. Chúng ta có bao giờ đặt ngược lại vấn đề: giả sử như vua Tự Đức đồng ý với bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ nhưng cả một hệ thống quan lại bên dưới không đồng ý và không biết cách thực hiện nó như thế nào thì mọi việc sẽ ra sao.
Để thực hiện những kiến nghị của bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ cần phải thay đổi tư tưởng của cả một hệ thống bộ máy cầm quyền từ vua cho đến các quan lại bên dưới.
Nguyễn Trường Tộ không làm được điều đó. Đó thật sự là một thất bại lớn nhất trong cuộc đời của ông. Ông chỉ biết cách nêu ra ý tưởng nhưng không đề ra được những giải pháp để ý tưởng trở thành hiện thực.
Trở lại vấn đề canh tân đất nước, nói đúng hơn là để tạo ra một sự thay đổi trong xã hội VN dựa trên quan điểm của John Kotter về làm sao thay đổi một cách hữu hiệu:
Muốn tạo ra 1 sự thay đổi trong xã hội thì người ta cần phải có những yếu tố sau:
1) Nhu cầu muốn thay đổi hay một tình huống khẩn cấp đòi hỏi đưa tới thay đổi
2) Sự có mặt của một đội ngũ nòng cốt lớn mạnh và có khả năng lãnh đạo đưa tới sự thay đổi
3) Đội ngũ lãnh đạo này phải có tầm nhìn xa và lý tưởng rõ ràng: họ muốn thay đổi điều gì, họ muốn xây dựng điều gì và mục đích cũng như lợi ích của lý tưởng đó với moi người
4) Đội ngũ lãnh đạo này phải có khả năng truyền đạt lý tưởng và tầm nhìn của mình đến với đa số quần chúng chung quanh để tạo nên sự đồng thuận giữa mọi người đưa đến một sức mạnh khổng lồ khiến cho sự thay đổi sẽ diễn ra
5) Đội ngũ lãnh đạo phải có phương hướng và kế hoạch cụ thể để đối phó với mọi trở ngại trong việc thay đổi, họ nên có những kế hoạch phòng bị cần thiết để giải quyết các tình huống xảy ra trong khi tiến hành sự thay đổi.
6) Đội ngũ lãnh đạo này phải có kế hoạch cụ thể từng bước để đánh giá sự thành công trong quá trình thay đổi.
.....
Xét về bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, yếu tố đầu tiên: "nhu cầu muốn thay đổi hay một tình huống khẩn cấp đòi hỏi đưa tới thay đổi" đã có trong xã hội VN. Đất nước đang đứng trên một bờ vực bị thực dân xâm chiếm, triều đình phong kiến của Huế mong muốn có sự thay đổi, canh tân đất nước.
Tuy nhiên xét đến yếu tố thứ hai: "sự có mặt của một đội ngũ nòng cốt lớn mạnh và có khả năng lãnh đạo đưa tới sự thay đổi" thì rõ ràng trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ chưa có được yếu tố này.
"Một con én không làm nên mùa xuân", Nguyễn Trường Tộ chỉ là một con én nhỏ nhoi trong một xã hội phong kiến băng giá lúc bấy giờ. Ông chỉ lên tiếng phê phán xã hội thực tại, đề xướng ra những cải cách mà theo ông là sẽ giúp cho xã hội phát triển nhưng ông không biết cách vận động những người có thể ủng hộ ông, những người có khả năng biến những cải cách của ông thành hiện thực.
Nguyễn Trường Tộ là một nhà có tư tưởng cải cách xã hội. Tư tưởng của ông vượt lên trước xã hội phong kiến thời bấy giờ. Tuy nhiên ông không biết cách biến tư tưởng của ông trở thành hiện thực.
Điều đáng ghi nhận ở ông chính là việc ông cương trực, khẳng khái, có tinh thần yêu nước trong việc gởi lên triều đình những kiến nghị có giá trị, đề nghị chánh quyền cải cách chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học, giáo dục...
Lẽ dĩ nhiên nếu các kiến nghị của ông được áp dụng thì sẽ là một sách lược lớn biến Việt Nam trở thành một nước hùng cường, tạo nên chuyển biến quan trọng trong lịch sử giữ nước của dân tộc.
Tuy nhiên vấn đề cần đặt ra là tại sao những bản điều trần của ông không được quan tâm đến?
Chúng ta hãy thử hình dung xã hội phong kiến triều Nguyễn lúc bấy giờ được bao bọc bởi một ngôi nhà đóng cửa khép kín để cố chống chọi sự nguy cơ xâm chiếm của thực dân Pháp lúc bấy giờ đang hiện hữu trước mắt.
Khi từ vùng đất phương Tây tràn ngập ánh sáng văn minh trở về quê nhà, Nguyễn Trường Tộ ra sức gởi các bản điều trần để "kêu gọi" triều đình nhà Nguyễn "mở cửa" trong việc giao thương với các nước phương Tây.
Ông giống như một người đi xa từ một vùng đất ngập tràn ánh sáng trở về ngôi nhà căn nhà tối tăm và khép kín và bảo với mọi người trong ngôi nhà rằng ở ngoài kia có rất nhiều ánh sáng, hãy mở cửa để cho ánh sáng tràn vào.
Thế nhưng ông chưa bao giờ nghĩ tới việc một người khi đã sống trong bóng tối thì trong nhận thức của mình họ luôn nghĩ rằng bóng tối là cần thiết cho cuộc sống của họ, họ không cần đến một thứ ánh sáng xa lạ, một thứ ánh sáng mà theo họ có thể kèm theo đó là những cơn gió độc.
Về mặt thay đổi nhận thức thì ông chỉ có thể thay đổi nhận thức của chính bản thân mình nhưng chưa thay đổi nhận thức của xã hội ông đang sống lúc bấy giờ. Rõ ràng là đến cuối đời ông đã tuyệt vọng và chán chường và đã phải thốt lên:
Nhất thất túc, thành thiên cổ hận
Tái hồi đầu, thị bách niên cơ...
(Một kiếp sa chân, muôn kiếp hận
Ngoảnh đầu cơ nghiệp ấy trăm năm...)
Ông là một người có ý tưởng để canh tân đất nước, tuy nhiên ông đã thất bại trong việc không tìm ra được những phương cách tích cực nào để biến ý tưởng của mình thành hiện thực.
Nguyễn Trường Tộ thông minh xuất chúng
Nguyễn Trường Tộ sinh ra trước khi quân Pháp chính thức xâm chiếm Việt Nam (1858) đúng 30 năm. Vào năm 1858, khi hải quân Pháp đổ bộ vào cảng Đà Nẵng và sau đó xâm chiếm Sài Gòn thì ông được giám mục Gauthier đưa qua Hương Cảng, Singapore, Thuỵ Sĩ. Trên đường đi ông có ghé Roma yết kiến Giáo hoàng rồi cuối cùng sang Paris theo học trong gần 2 năm.
Với tư chất là một người thông minh, có hiểu biết sâu rộng về nền văn hóa Việt Nam, là người có khả năng hấp thu những tư tưởng mới, những tinh hoa văn hóa của nhân loại, trong thời gian ngắn ngủi này, ông đã miệt mài học tập tiếp thu tri thức khoa học hiện đại, tìm hiểu thực tế xã hội phương Tây, với mong muốn trở về giúp ích cho đất nước.
Để dễ dàng hình dung, chúng ta hãy dùng một hình tượng xã hội phong kiến Việt Nam lúc bấy giờ đang bị sống trong một căn nhà là một thể chế chính trị phong kiến tập quyền, đứng đầu là vua Nguyễn. Căn nhà ấy được xây dựng trên nền tảng tư tưởng Nho giáo rất lạc hậu và bảo thủ so với trào lưu tư tưởng tiến bộ của phương Tây lúc bấy giờ.
Một du học sinh thông minh và đỉnh ngộ như lúc 30 tuổi được tiếp thu những tư tưởng tinh hoa của thế giới phương Tây đã cảm thấy như được "khai sáng". Ông nghĩ rằng chế độ phong kiến VN cần phải thay đổi, học tập và áp dụng những tư tưởng phương Tây để bắt kịp với thế giới. Chính vì thế khi trở về nước, trăn trở những những tụt hậu của đất nước lúc bấy giờ ông đã đã liên tiếp gửi lên triều đình Huế 59 bản điều trần đề xuất canh tân xây dựng đất nước giàu mạnh. Gần sáu chục bản điều trần này đề cập đủ mọi lĩnh vực, các mặt chủ yếu:
* Về mặt kinh tế: ông quan tâm đến công, nông, thương nghiệp. Mở mang buôn bán trong nước và giao thương với nước ngoài, mời các công ty nước ngoài đến giúp ta khai thác tài lợi, sửa đổi thuế khoá làm sao cho "nước giàu dân cũng giàu"....
* Về mặt văn hóa - giáo dục: ông đề xuất cải cách phong tục, chủ trương coi trọng dân, sửa đổi chế độ thi cử mở mang việc học hành, thay đổi nội dung giáo dục, lấy quốc âm thay thế chữ Hán, lập trại tế bần...
* Về mặt ngoại giao: ông phân tích cho triều đình thấy rõ cục diện chính trị trên toàn thế giới thời đó, những mâu thuẫn về quyền lợi giữa Pháp với Anh và Tây Ban Nha, khuyên triều đình nên ngoại giao trực tiếp với chính phủ Pháp tìm cách ngăn chặn âm mưu xâm lược của bọn Pháp bên này, khéo léo chọn thời cơ lấy lại 6 tỉnh Nam Kỳ, xác lập "tư thế làm chủ đón khách"....
* Về mặt quân sự: thời đó, tuy ông "chủ hoà" nhưng không có tư tưởng "chủ hàng" một cách nguyên tắc. Ông khuyên triều đình cải tu võ bị, trọng võ trọng văn, ưu ái người lính, biên soạn binh pháp, đào tạo sĩ quan, mua sắm tàu thuyền vũ khí, xây dựng phòng tuyến cả ở thành thị lẫn nông thôn, đề phòng quân Pháp xâm lược lan ra cả nước...
Những kiến nghị của Nguyễn Trường Tộ thật sự mang lại một bước đột phá mới trong nhận thức của giới trí thức tinh hoa lúc bấy giờ.
Học giả Lê Thước phê bình công nghiệp bình sinh của ông:
"...Nguyễn Trường Tộ là nhà khoa học, nhà chính trị và cũng là nhà tân học nước ta xưa. Tư tưởng và kiến thức của tiên sinh hơn người đồng thời muôn nghìn."
Tuy nhiên ông đã thất bại trong việc thuyết phục vua quan nhà Nguyễn tin vào những kiến nghị canh tân của mình. Lịch sử VN ghi nhận lại rằng triều đình thời vua Tự Đức cũng không hề quan tâm.
http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/ImageView.aspx?ThumbnailID=20992
Mộ "nhà cải cách không gặp thời" Nguyễn Trường Tộ
Một nhà nghiên cứu đã nhận xét triều đình thời vua Tự Đức: "Vì đầu óc bảo thủ, vì sự thờ ơ, vô trách nhiệm đối với dân với nước mà vua quan triều đình bỏ qua những chủ trương táo bạo, đúng đắn vào lúc đất nước đang cần mạnh lên hơn bao giờ hết".
Có một vấn đề cần đặt ra ở đây đó chính là tư duy và sự suy nghĩ của một người không thể vượt ra khỏi nền giáo dục, văn hóa mà người đó nhận thức được.
Vua Tự Đức hay bộ máy quan lại trong triều đình ông cũng thế, trước những bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ, họ có hai sự lựa chọn.
1. Chấp nhận bản điều trần của ông, mở cửa đất nước cho người Pháp và những người ngoại quốc vào giao thương với Việt Nam
2. Bác bỏ bản điều trần của ông, đóng cửa biên giới, thực hiện chính sách "bế quan tỏa cảng".
Đứng ở thời điểm hiện tại, nhìn về quá khứ mỗi người chúng ta dễ dàng nhận thấy sự sai lầm của vua quan triều Nguyễn lúc bấy giờ trong việc "bế quan tỏa cảng". Thế nhưng dưới một cái nhìn khách quan, nếu như với suy nghĩ của triều đình thời Nguyễn lúc bấy giờ thì rõ ràng việc để cho những người ngoại quốc tự do ra vào đất nước và lãnh thổ của mình sẽ gây ra nhiều mối bất lợi. Rõ ràng là với suy nghĩ và nhận thức của vua quan lúc bấy giờ, họ không thể nào hình dung ra được khi thực hiện những điều trong bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ thì đất nước sẽ phát triển, còn ngược lại thì sẽ bị thực dân Pháp xâm lược.
Một con người, dù đó là vua thì cũng không thể vượt ra khỏi nhận thức về mặt tư tưởng so với thời đại mình đang sống. Chúng ta có bao giờ đặt ngược lại vấn đề: giả sử như vua Tự Đức đồng ý với bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ nhưng cả một hệ thống quan lại bên dưới không đồng ý và không biết cách thực hiện nó như thế nào thì mọi việc sẽ ra sao.
Để thực hiện những kiến nghị của bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ cần phải thay đổi tư tưởng của cả một hệ thống bộ máy cầm quyền từ vua cho đến các quan lại bên dưới.
Nguyễn Trường Tộ không làm được điều đó. Đó thật sự là một thất bại lớn nhất trong cuộc đời của ông. Ông chỉ biết cách nêu ra ý tưởng nhưng không đề ra được những giải pháp để ý tưởng trở thành hiện thực.
Trở lại vấn đề canh tân đất nước, nói đúng hơn là để tạo ra một sự thay đổi trong xã hội VN dựa trên quan điểm của John Kotter về làm sao thay đổi một cách hữu hiệu:
Muốn tạo ra 1 sự thay đổi trong xã hội thì người ta cần phải có những yếu tố sau:
1) Nhu cầu muốn thay đổi hay một tình huống khẩn cấp đòi hỏi đưa tới thay đổi
2) Sự có mặt của một đội ngũ nòng cốt lớn mạnh và có khả năng lãnh đạo đưa tới sự thay đổi
3) Đội ngũ lãnh đạo này phải có tầm nhìn xa và lý tưởng rõ ràng: họ muốn thay đổi điều gì, họ muốn xây dựng điều gì và mục đích cũng như lợi ích của lý tưởng đó với moi người
4) Đội ngũ lãnh đạo này phải có khả năng truyền đạt lý tưởng và tầm nhìn của mình đến với đa số quần chúng chung quanh để tạo nên sự đồng thuận giữa mọi người đưa đến một sức mạnh khổng lồ khiến cho sự thay đổi sẽ diễn ra
5) Đội ngũ lãnh đạo phải có phương hướng và kế hoạch cụ thể để đối phó với mọi trở ngại trong việc thay đổi, họ nên có những kế hoạch phòng bị cần thiết để giải quyết các tình huống xảy ra trong khi tiến hành sự thay đổi.
6) Đội ngũ lãnh đạo này phải có kế hoạch cụ thể từng bước để đánh giá sự thành công trong quá trình thay đổi.
.....
Xét về bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, yếu tố đầu tiên: "nhu cầu muốn thay đổi hay một tình huống khẩn cấp đòi hỏi đưa tới thay đổi" đã có trong xã hội VN. Đất nước đang đứng trên một bờ vực bị thực dân xâm chiếm, triều đình phong kiến của Huế mong muốn có sự thay đổi, canh tân đất nước.
Tuy nhiên xét đến yếu tố thứ hai: "sự có mặt của một đội ngũ nòng cốt lớn mạnh và có khả năng lãnh đạo đưa tới sự thay đổi" thì rõ ràng trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ chưa có được yếu tố này.
"Một con én không làm nên mùa xuân", Nguyễn Trường Tộ chỉ là một con én nhỏ nhoi trong một xã hội phong kiến băng giá lúc bấy giờ. Ông chỉ lên tiếng phê phán xã hội thực tại, đề xướng ra những cải cách mà theo ông là sẽ giúp cho xã hội phát triển nhưng ông không biết cách vận động những người có thể ủng hộ ông, những người có khả năng biến những cải cách của ông thành hiện thực.
Nguyễn Trường Tộ là một nhà có tư tưởng cải cách xã hội. Tư tưởng của ông vượt lên trước xã hội phong kiến thời bấy giờ. Tuy nhiên ông không biết cách biến tư tưởng của ông trở thành hiện thực.
Điều đáng ghi nhận ở ông chính là việc ông cương trực, khẳng khái, có tinh thần yêu nước trong việc gởi lên triều đình những kiến nghị có giá trị, đề nghị chánh quyền cải cách chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học, giáo dục...
Lẽ dĩ nhiên nếu các kiến nghị của ông được áp dụng thì sẽ là một sách lược lớn biến Việt Nam trở thành một nước hùng cường, tạo nên chuyển biến quan trọng trong lịch sử giữ nước của dân tộc.
Tuy nhiên vấn đề cần đặt ra là tại sao những bản điều trần của ông không được quan tâm đến?
Chúng ta hãy thử hình dung xã hội phong kiến triều Nguyễn lúc bấy giờ được bao bọc bởi một ngôi nhà đóng cửa khép kín để cố chống chọi sự nguy cơ xâm chiếm của thực dân Pháp lúc bấy giờ đang hiện hữu trước mắt.
Khi từ vùng đất phương Tây tràn ngập ánh sáng văn minh trở về quê nhà, Nguyễn Trường Tộ ra sức gởi các bản điều trần để "kêu gọi" triều đình nhà Nguyễn "mở cửa" trong việc giao thương với các nước phương Tây.
Ông giống như một người đi xa từ một vùng đất ngập tràn ánh sáng trở về ngôi nhà căn nhà tối tăm và khép kín và bảo với mọi người trong ngôi nhà rằng ở ngoài kia có rất nhiều ánh sáng, hãy mở cửa để cho ánh sáng tràn vào.
Thế nhưng ông chưa bao giờ nghĩ tới việc một người khi đã sống trong bóng tối thì trong nhận thức của mình họ luôn nghĩ rằng bóng tối là cần thiết cho cuộc sống của họ, họ không cần đến một thứ ánh sáng xa lạ, một thứ ánh sáng mà theo họ có thể kèm theo đó là những cơn gió độc.
Về mặt thay đổi nhận thức thì ông chỉ có thể thay đổi nhận thức của chính bản thân mình nhưng chưa thay đổi nhận thức của xã hội ông đang sống lúc bấy giờ. Rõ ràng là đến cuối đời ông đã tuyệt vọng và chán chường và đã phải thốt lên:
Nhất thất túc, thành thiên cổ hận
Tái hồi đầu, thị bách niên cơ...
(Một kiếp sa chân, muôn kiếp hận
Ngoảnh đầu cơ nghiệp ấy trăm năm...)
Ông là một người có ý tưởng để canh tân đất nước, tuy nhiên ông đã thất bại trong việc không tìm ra được những phương cách tích cực nào để biến ý tưởng của mình thành hiện thực.
Thứ Hai, 8 tháng 6, 2009
Lịch sử - Địa lý
Lịch sử và địa lý là hai lĩnh vực mà tôi quan tâm từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Tuy nhiên cách viết sử của những nhà viết sách giáo khoa Việt Nam đôi khi khiến tôi chau mày khi nhận ra sự phiến diện, một chiều và công thức của họ trong cách nhìn nhận các vấn đề của lịch sử, nhất là lịch sử Việt Nam thời hiện đại.
Khi có điều kiện khảo cứu nhiều tài liệu về lịch sử Việt Nam tôi nhận ra rằng có rất nhiều vấn đề mà giới sử gia Việt Nam còn lúng túng và có nhiều quan điểm khác nhau về cùng một vấn đề. Chẳng hạn như giới sử gia thường "kết tội" nhà Nguyễn trong việc chậm trễ canh tân đất nước dẫn đến việc thực dân Pháp xâm lược Việt Nam thành công và cuối cùng là việc Việt Nam trở thành một quốc gia thuộc địa của Pháp.
Trong bài viết: "Trách nhiệm triều Nguyễn về sự thất bại của xu hướng đổi mới ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX", Đinh Xuân Lâm cho rằng: "Tư bản Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam vào lúc chế độ phong kiến Việt Nam đang lún sâu vào con đường khủng hoảng suy vong trầm trọng. Chính sách khắc nghiệt và sai lầm của triều Nguyễn về kinh tế - tài chính đã làm cho nông nghiệp trong nước ngày càng tiêu điều, xơ xác. Nông nghiệp sa sút, kéo theo luôn sự suy thoái rõ rệt của các ngành nghề thủ công truyền thống trong nhân dân. Còn công nghiệp cũng ngày càng lụi tàn vì các quy định ngặt nghèo như các chế độ công tượng mang tính chất cưỡng bức lao động, đánh thuế sản vật rất nặng mang tính chất nô dịch v.v…"
Việc chế độ phong kiến triều Nguyễn lúc bấy giờ lún sâu vào con đường khủng hoảng, trì trệ trong việc đổi mới kinh tế, quân sự được giới sử gia Việt Nam cho rằng đó là nguyên nhân chính yếu dẫn tới việc triều Nguyễn thất bại trong việc chống Pháp, dẫn tới việc phải ký các hiệp định nhượng bộ và cuối cùng phải chịu sự đô hộ của thực dân Pháp hơn 90 năm.
Tôi cho rằng câu hỏi: Vì sao triều Nguyễn thất bại trong việc chống lại sự xâm lược thực dân Pháp xâm lược? cần đặt lại vấn đề một cách sâu rộng, toàn diện hơn và nhất là phải đẩy nguyên nhân của vấn đề càng lùi xa chuỗi nhân quả của lịch sử thì mới có được câu trả lời thỏa đáng cho câu hỏi tưởng chừng có câu trả lời rất hiển nhiên là do sự yếu kém và thối nát của vương triều nhà Nguyễn lúc bấy giờ như giới sử gia Việt Nam hay viện dẫn khi nhắc đến sự thất bại của vương triều Nguyễn trong cuộc kháng chiến chống lại sự đô hộ của thực dân Pháp.
Các sử gia trong và ngoài nước khi nhận định về nguyên nhân dẫn tới thời kỳ Pháp thuộc thường chỉ ra "nguyên nhân trực tiếp" là do nhà Nguyễn không khôn khéo trong các chính sách đối nội và đối ngoại. Chẳng hạn như nhận định trong Việt sử Toàn thư cho: "Nếu như trong khoảng thời gian Pháp còn lúng túng với nội bộ cùng với liệt cường, vua chúa Việt Nam sớm có một chính sách đối ngoại khôn khéo, am hiểu thuật phú quốc cường binh thì chúng ta đâu phải viết những trang quốc sử bằng máu và nước mắt vào hạ bán thế kỷ XIX. Tiếng súng của trung tướng Rigault de Gnouilly và đại tá Lapierre vào mùa thu năm Đinh Vị (1847), tiếc thay, chưa đủ là một cảnh cáo cho cái triều đình hôn ám của vua Thiệu Trị".
Tuy nhiên tôi muốn đẩy vấn đề đi sâu và xa hơn đó là vì sao vua chúa Nguyễn thời bấy giờ không có được một chính sách đối ngoại khôn khéo, không am hiểu thuật phú quốc cường binh?
Blog này được lập ra mục đích là tìm hiểu các vấn đề về lịch sử Việt Nam để đặt nghi vấn và tìm câu trả lời cho những câu hỏi cần phải được tranh luận và làm sáng tỏ khi đặt lịch sử trong một cái khung cảnh địa lý cụ thể. Qua đó, hy vọng rằng sẽ có những câu trả lời thỏa đáng về những vấn đề lịch sử nan giải như Vì sao nhà Nguyễn thất bại trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp? Vì sao nhà Nguyễn không thể thực hiện các cuộc cải cách canh tân đất nước...
Khi có điều kiện khảo cứu nhiều tài liệu về lịch sử Việt Nam tôi nhận ra rằng có rất nhiều vấn đề mà giới sử gia Việt Nam còn lúng túng và có nhiều quan điểm khác nhau về cùng một vấn đề. Chẳng hạn như giới sử gia thường "kết tội" nhà Nguyễn trong việc chậm trễ canh tân đất nước dẫn đến việc thực dân Pháp xâm lược Việt Nam thành công và cuối cùng là việc Việt Nam trở thành một quốc gia thuộc địa của Pháp.
Trong bài viết: "Trách nhiệm triều Nguyễn về sự thất bại của xu hướng đổi mới ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX", Đinh Xuân Lâm cho rằng: "Tư bản Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam vào lúc chế độ phong kiến Việt Nam đang lún sâu vào con đường khủng hoảng suy vong trầm trọng. Chính sách khắc nghiệt và sai lầm của triều Nguyễn về kinh tế - tài chính đã làm cho nông nghiệp trong nước ngày càng tiêu điều, xơ xác. Nông nghiệp sa sút, kéo theo luôn sự suy thoái rõ rệt của các ngành nghề thủ công truyền thống trong nhân dân. Còn công nghiệp cũng ngày càng lụi tàn vì các quy định ngặt nghèo như các chế độ công tượng mang tính chất cưỡng bức lao động, đánh thuế sản vật rất nặng mang tính chất nô dịch v.v…"
Việc chế độ phong kiến triều Nguyễn lúc bấy giờ lún sâu vào con đường khủng hoảng, trì trệ trong việc đổi mới kinh tế, quân sự được giới sử gia Việt Nam cho rằng đó là nguyên nhân chính yếu dẫn tới việc triều Nguyễn thất bại trong việc chống Pháp, dẫn tới việc phải ký các hiệp định nhượng bộ và cuối cùng phải chịu sự đô hộ của thực dân Pháp hơn 90 năm.
Tôi cho rằng câu hỏi: Vì sao triều Nguyễn thất bại trong việc chống lại sự xâm lược thực dân Pháp xâm lược? cần đặt lại vấn đề một cách sâu rộng, toàn diện hơn và nhất là phải đẩy nguyên nhân của vấn đề càng lùi xa chuỗi nhân quả của lịch sử thì mới có được câu trả lời thỏa đáng cho câu hỏi tưởng chừng có câu trả lời rất hiển nhiên là do sự yếu kém và thối nát của vương triều nhà Nguyễn lúc bấy giờ như giới sử gia Việt Nam hay viện dẫn khi nhắc đến sự thất bại của vương triều Nguyễn trong cuộc kháng chiến chống lại sự đô hộ của thực dân Pháp.
Các sử gia trong và ngoài nước khi nhận định về nguyên nhân dẫn tới thời kỳ Pháp thuộc thường chỉ ra "nguyên nhân trực tiếp" là do nhà Nguyễn không khôn khéo trong các chính sách đối nội và đối ngoại. Chẳng hạn như nhận định trong Việt sử Toàn thư cho: "Nếu như trong khoảng thời gian Pháp còn lúng túng với nội bộ cùng với liệt cường, vua chúa Việt Nam sớm có một chính sách đối ngoại khôn khéo, am hiểu thuật phú quốc cường binh thì chúng ta đâu phải viết những trang quốc sử bằng máu và nước mắt vào hạ bán thế kỷ XIX. Tiếng súng của trung tướng Rigault de Gnouilly và đại tá Lapierre vào mùa thu năm Đinh Vị (1847), tiếc thay, chưa đủ là một cảnh cáo cho cái triều đình hôn ám của vua Thiệu Trị".
Tuy nhiên tôi muốn đẩy vấn đề đi sâu và xa hơn đó là vì sao vua chúa Nguyễn thời bấy giờ không có được một chính sách đối ngoại khôn khéo, không am hiểu thuật phú quốc cường binh?
Blog này được lập ra mục đích là tìm hiểu các vấn đề về lịch sử Việt Nam để đặt nghi vấn và tìm câu trả lời cho những câu hỏi cần phải được tranh luận và làm sáng tỏ khi đặt lịch sử trong một cái khung cảnh địa lý cụ thể. Qua đó, hy vọng rằng sẽ có những câu trả lời thỏa đáng về những vấn đề lịch sử nan giải như Vì sao nhà Nguyễn thất bại trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp? Vì sao nhà Nguyễn không thể thực hiện các cuộc cải cách canh tân đất nước...
Đăng ký:
Nhận xét (Atom)