Việt Nam và Nhật Bản là hai quốc gia, về mặt địa chính trị, được xếp vào châu Á. Việt Nam và Nhật Bản có nhiều nét tương đồng về con người và văn hóa hơn nếu so sánh hai quốc gia này với các quốc gia phương Tây. Cả hai quốc gia đều là người da vàng, chịu ảnh hưởng bởi văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ, hai nền văn hóa lớn nhất của châu Á.
Tuy nhiên, lịch sử Nhật Bản lại cho thấy sự phát triển thần kỳ về kinh tế và các tổ chức thể chế chính trị đưa Nhật Bản trở thành một cường quốc thế giới. Nhật Bản là quốc gia đầu tiên của châu Á gia nhập vào nhóm những quốc gia phát triển nhất của thế giới. Trong khi đó, xét về nhiều phương diện, Việt Nam vẫn là một quốc gia kém phát triển so với một cường quốc như Nhật Bản.
Vào đầu thế kỷ 20, những sĩ phu Việt Nam yêu nước nhận thấy sự phát triển thần kỳ của Nhật Bản đã giúp họ thoát khỏi ách thống trị của thực dân phương Tây. Một phong trào đưa người sang Nhật du học được Phan Bội Châu và Duy Tân Hội khởi xướng nhằm chuẩn bị lực lượng, chờ thời cơ cho việc giành độc lập của nước nhà.
Những năm gần đây, một phong trào học tập Nhật Bản cũng được giới trí thức trẻ khởi xướng bằng việc dịch các tác phẩm có tính chất khai sáng của Nhật Bản như Khuyến học, Phúc ông tự truyện của Fukuzawa Yukichi, người được xem là nhà tư tưởng tiến bộ, nhà giáo dục có ảnh hưởng rất lớn tới phong trào Khai Sáng ở Nhật Bản vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, tạo tiền đề cho Nhật Bản trở thành một cường quốc trên thế giới.
Dường như, những nỗ lực học tập Nhật Bản của giới trí thức Việt Nam không đem lại kết quả như mong đợi.
Một câu hỏi cần được đặt ra là tại sao Nhật Bản lại có thể xuất hiện một nhà khai sáng như Fukuzawa Yukichi và đã thành công trong khi đó, tại Việt Nam, những nỗ lực không mệt mỏi của Phan Chu Trinh và các đồng chí của ông, với cùng một tư tưởng và quan điểm như Fukuzawa lại thất bại.
Thứ Hai, 23 tháng 5, 2011
Chủ Nhật, 23 tháng 5, 2010
Newton
http://vietsciences.free.fr/timhieu/khoahoc/astronomie/vutruhe_newton_princip_math.htm
Nguyên tắc toán học của Newton là bộ sách vĩ đại, tuy nhiên những nhà khoa học hâm mộ Newton nhất cũng đều nhìn nhận rằng tác phẩm đó không phải là “vô tiền”. Cohen viết:
“Thành công lớn của Newton sở dĩ có được nhờ những công trình của các nhà khoa học tiền bối. Ngày trước Newton, Descartes và Fernat đã phát minh ra khoa hình học giải tích, Oughtred, Harriot và Wallis đã phát triển môn đại số, Kepler tìm ra định luật về chuyển động, Galileo tìm ra định luật về tốc độ và xác định rằng: một sự chuyển động có thể chia ra nhiều thành phần độc lập (thí dụ như trái đạn bay gồm có một tốc độ tiến đều về phía trước và một tốc độ rơi xuống tăng dần như kiểu một vật nặng rơi xuống vậy). Nhưng công trình vừa kể của các nhà bác học chỉ là những yếu tố chuẩn bị cho khối óc vĩ đại của Newton thực hiện một sự “tổng hợp” để chứng minh mình dứt khoát rằng: vũ trụ chuyển vận theo các định luật toán học”.
Viết về Newton, Jean cũng nhìn nhận rằng: “Thời đó thế giới đang cần một người có khả năng hệ thống hoá, tổng hợp và triển khai những công trình toán học có tính toàn thể, và người đó là thiên tài Newton”.
Chính Newton cũng nhìn nhận rằng: vũ trụ hệ của ông chỉ là tiếp tục công trình khởi đầu từ Corpernicus được Tycho Brahe, Kepler và Galileo phát triển thêm. Ông viết: “nếu tôi nhìn được xa hơn những người khác, ấy là vì tôi đứng trên vai các vĩ nhân”.
Tất cả những cuộc tranh luận diễn ra trong thời Newton là vì thời đó sự hoạt động khoa học rất sôi nổi. Các lý thuyết mới đua nhau ra đời, mở đường cho những công cuộc nghiên cứu của các nhà khoa học tài năng. Người ta không lấy làm lạ có hai nhà khoa học mỗi người ở một nơi mà đồng thời có những khám phá như nhau. Đó là trường hợp xảy ra trong cuộc tranh luận giữa Newton với Leibniz và với Hooke, đề ra thuyết vạn vật hấp dẫn. Tuy thành công muộn hơn Newton, nhưng Leibniz và Hooke công bố công trình trước Newton, vì Newton vốn không thích sự phô trương.
Nguyên tắc toán học của Newton là bộ sách vĩ đại, tuy nhiên những nhà khoa học hâm mộ Newton nhất cũng đều nhìn nhận rằng tác phẩm đó không phải là “vô tiền”. Cohen viết:
“Thành công lớn của Newton sở dĩ có được nhờ những công trình của các nhà khoa học tiền bối. Ngày trước Newton, Descartes và Fernat đã phát minh ra khoa hình học giải tích, Oughtred, Harriot và Wallis đã phát triển môn đại số, Kepler tìm ra định luật về chuyển động, Galileo tìm ra định luật về tốc độ và xác định rằng: một sự chuyển động có thể chia ra nhiều thành phần độc lập (thí dụ như trái đạn bay gồm có một tốc độ tiến đều về phía trước và một tốc độ rơi xuống tăng dần như kiểu một vật nặng rơi xuống vậy). Nhưng công trình vừa kể của các nhà bác học chỉ là những yếu tố chuẩn bị cho khối óc vĩ đại của Newton thực hiện một sự “tổng hợp” để chứng minh mình dứt khoát rằng: vũ trụ chuyển vận theo các định luật toán học”.
Viết về Newton, Jean cũng nhìn nhận rằng: “Thời đó thế giới đang cần một người có khả năng hệ thống hoá, tổng hợp và triển khai những công trình toán học có tính toàn thể, và người đó là thiên tài Newton”.
Chính Newton cũng nhìn nhận rằng: vũ trụ hệ của ông chỉ là tiếp tục công trình khởi đầu từ Corpernicus được Tycho Brahe, Kepler và Galileo phát triển thêm. Ông viết: “nếu tôi nhìn được xa hơn những người khác, ấy là vì tôi đứng trên vai các vĩ nhân”.
Tất cả những cuộc tranh luận diễn ra trong thời Newton là vì thời đó sự hoạt động khoa học rất sôi nổi. Các lý thuyết mới đua nhau ra đời, mở đường cho những công cuộc nghiên cứu của các nhà khoa học tài năng. Người ta không lấy làm lạ có hai nhà khoa học mỗi người ở một nơi mà đồng thời có những khám phá như nhau. Đó là trường hợp xảy ra trong cuộc tranh luận giữa Newton với Leibniz và với Hooke, đề ra thuyết vạn vật hấp dẫn. Tuy thành công muộn hơn Newton, nhưng Leibniz và Hooke công bố công trình trước Newton, vì Newton vốn không thích sự phô trương.
Thứ Bảy, 3 tháng 4, 2010
Hồ Quý Ly
Trước đây tôi vẫn nghĩ rằng những cải cách của Hồ Quý Ly như hạn điền, hạn nô, phát hành tiền giấy... là những cải cách tích cực, "cống hiến đáng kể cho sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của dân tộc" như nhận xét của một số nhà sử học khi đánh giá về nhân vật này.
Tuy nhiên, khi phân tích kỹ hơn về những cải cách của Hồ Quý Ly dưới góc độ kinh tế học thì những cải cách của ông không tích cực như đánh giá của các sử gia mà nó đã làm kinh tế có tính chất tư hữu đang phát triển mạnh mẽ thời Hậu Trần rơi vào một cuộc khủng hoảng. Nhưng cuộc khủng hoảng đó lại giúp Hồ Quý Ly củng cố quyền lực của nhà nước trung ương, đồng thời tước bỏ quyền lực của giới quý tộc nhà Trần ở các địa phương.
Khi tìm hiểu về nhà Trần, một đặc điểm làm tôi khá ngạc nhiên bởi vì nhà Trần đã hình thành nên một nền kinh tế tư nhân khá phát triển. 3 cuộc kháng chiến chống quân Nguyên xâm lược thành công tôi nghĩ rằng có sự giúp đỡ rất lớn của thành phần kinh tế tư nhân, đứng đầu là các vương hầu.
Có lẽ kinh tế tư nhân phát triển cực thịnh vào thời Hậu Trần.
Việc phát triển kinh tế tư nhân của nhà Trần thời đó theo xu hướng ruộng đất tập trung vào trong tay các địa chủ phong kiến do đó triều đình trung ương mất dần quyền kiểm soát trong việc thu thuế ruộng đất.
Tuy nhiên, khi phân tích kỹ hơn về những cải cách của Hồ Quý Ly dưới góc độ kinh tế học thì những cải cách của ông không tích cực như đánh giá của các sử gia mà nó đã làm kinh tế có tính chất tư hữu đang phát triển mạnh mẽ thời Hậu Trần rơi vào một cuộc khủng hoảng. Nhưng cuộc khủng hoảng đó lại giúp Hồ Quý Ly củng cố quyền lực của nhà nước trung ương, đồng thời tước bỏ quyền lực của giới quý tộc nhà Trần ở các địa phương.
Khi tìm hiểu về nhà Trần, một đặc điểm làm tôi khá ngạc nhiên bởi vì nhà Trần đã hình thành nên một nền kinh tế tư nhân khá phát triển. 3 cuộc kháng chiến chống quân Nguyên xâm lược thành công tôi nghĩ rằng có sự giúp đỡ rất lớn của thành phần kinh tế tư nhân, đứng đầu là các vương hầu.
Có lẽ kinh tế tư nhân phát triển cực thịnh vào thời Hậu Trần.
Việc phát triển kinh tế tư nhân của nhà Trần thời đó theo xu hướng ruộng đất tập trung vào trong tay các địa chủ phong kiến do đó triều đình trung ương mất dần quyền kiểm soát trong việc thu thuế ruộng đất.
Thứ Ba, 16 tháng 6, 2009
Keith Weller Taylor
Keith Taylor: Lịch sử chính trị của người Việt từ thế kỉ 15 đến bây giờ chủ yếu là lịch sử đấu tranh giữa những địa phương. Hiện nay ở Việt Nam chính phủ rất muốn nói rằng lịch sử Việt Nam là một lịch sử thống nhất và người Việt Nam là một cộng đồng thống nhất. Nhưng thật ra theo tôi, về quan điểm lịch sử thì điều đó không đúng.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/regionalnews/story/2003/09/030912_keithtaylor.shtml
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/regionalnews/story/2003/09/030912_keithtaylor.shtml
Thứ Ba, 9 tháng 6, 2009
Link tham khảo
Lính An Nam dưới thời pháp thuộc
có nhiều hình về vũ khí trang bị cho lính thời Pháp
Sự phát triển của vũ khí có thể chia làm hai thời kỳ: thời kỳ vũ khí sử dụng năng lượng cơ bắp của con người và thời kỳ vũ khí sử dụng năng lượng thuốc nổ (thuốc súng). Vũ khí sử dụng thuốc nổ phát triển từ khoảng thế kỷ XIII đến thế kỷ XIX đã khá hoàn thiện. Như vậy có giai đoạn hai loại vũ khí này cùng tồn tại và phát triển. Tuy ra đời rất sớm và có quá trình phát triển lâu dài hàng ngàn năm nhưng loại vũ khí sử dụng sức lực con người hầu như ít có sự tiến bộ về cấu tạo nên hiệu quả không cao, dần dần bị sự phát triển của loại vũ khí sử dụng thuốc nổ thay thế. Thuật ngữ gọi hai loại vũ khí này là Bạch khí và Hỏa khí.
Sự phát triển của vũ khí có thể chia làm hai thời kỳ: thời kỳ vũ khí sử dụng năng lượng cơ bắp của con người và thời kỳ vũ khí sử dụng năng lượng thuốc nổ (thuốc súng). Vũ khí sử dụng thuốc nổ phát triển từ khoảng thế kỷ XIII đến thế kỷ XIX đã khá hoàn thiện. Như vậy có giai đoạn hai loại vũ khí này cùng tồn tại và phát triển. Tuy ra đời rất sớm và có quá trình phát triển lâu dài hàng ngàn năm nhưng loại vũ khí sử dụng sức lực con người hầu như ít có sự tiến bộ về cấu tạo nên hiệu quả không cao, dần dần bị sự phát triển của loại vũ khí sử dụng thuốc nổ thay thế. Thuật ngữ gọi hai loại vũ khí này là Bạch khí và Hỏa khí.
Nước ta trong suốt các triều đại Lý – Trần – Lê không khi nào quên việc sửa sang võ bị để tăng cường khả năng chống giặc ngoại xâm. Ngay trong thời bình nhiều nhà vua đã xuống chiếu nhắc nhở tướng sĩ không được lơ là phòng thủ quốc gia, phải chăm lo rèn binh luyện tướng, đóng chiến thuyền và rèn vũ khí. Binh thư yếu lược viết “ Cái đạo mạnh binh để chiến thắng có 5 điều: Sửa sang binh khí; Có đủ quân lính và xe cộ; Súc tích nhiều; Rèn luyện sĩ tốt; Kén được tướng giỏi”. Như vậy, “sửa sang binh khí” là điều quan trọng đầu tiên. Trong lịch sử nước ta, trang bị bạch khí cho quân đội phát triển nhất vào thời Lê, thế kỷ XV – XVI. Đến thế kỷ XVIII loại bạch khí phổ biến nhiều loại thông dụng. Theo Hội Điển của triều Nguyễn thì đến giữa thế kỷ XIX phần lớn binh lính của triều đình ra trận còn trang bị bằng bạch khí. Quân đội Tây Sơn tuy đã có pháo và một số loại hỏa khí nhưng về cơ bản vẫn trang bị bạch khí là chính.
Vũ khí cổ Việt Nam có thể chia thành các loại theo chức năng vận hành và hình dáng, gồm có:
- Bạch khí: vũ khí đánh gần, vũ khí đánh xa, vũ khí phòng ngự.
- Hỏa khí: súng lệnh, súng thần công, đạn đá, đạn gang.
* Bạch khí.
Vũ khí đánh gần: gồm có giáo, trường, câu liêm, kiếm, đinh ba…
- Về giáo: có giáo có chuôi hoặc họng tra cán, mũi giáo hình búp đa, hình ngòi bút, hình lá lúa, giáo có ngạnh ở thân. Giáo có thể tra cán ngắn hay dài đến hơn 2m (giáo trường) nên họng tra cán hay chuôi lắp cán đặc biệt cần vững chắc. Kích thước chung của các loại giáo: dài toàn thân từ 29 – 44cm, rộng lưỡi từ 3 - 4,4cm, nặng từ 250 – 540gr. Riêng giáo có ngạnh ở thân dài từ 23 – 40cm, nặng 100 – 320gr, thân giáo có tiết diện vuông thon dần về mũi, ngạnh vuông ở gần mũi nhọn. Ngạnh vuông nhọn dài khoảng 1,5 - 2cm. Chuôi giáo có lỗ chốt đinh để gắn vào cán.
- Mũi trường: là loại giáo có cán rất dài có thể đến 4m, tác dụng dùng để đâm với lực rất mạnh. Mũi trường có tiết diện hình vuông chia thành hai phần rõ rệt là mũi và chuôi tra cán. Kích thước chung: dài từ 40 – 64cm, tiết diện mũi 1,4 x 1,4cm, nặng từ 300 – 520gr.
- Câu liêm: là loại vũ khí khá phổ biến vì có khả năng vừa bổ, đâm, móc kẻ thù. Kích thước thường lớn và được rèn chế khá cầu kỳ. Cấu tạo câu liêm cũng gồm 2 phần là mũi và chuôi tra cán. Mũi thẳng theo trục dọc của chuôi tra cán (phần giáo), sát đầu cán vòng ra một lưỡi hình trăng khuyết, đầu phẳng, sắc (phần câu). Phần cuối đốc câu tạo thành chuôi tra cán. Kích thước chung: dài 52 – 66cm, nặng từ 580 – 1000gr.
- Kiếm: còn được coi là vũ khí tùy thân vì thường được đeo bên mình các tướng lĩnh. Gồm đoản kiếm và trường kiếm. Lưỡi kiếm dài từ 40 – 61cm, nặng từ 500 – 1300gr. Đoản kiếm lưỡi khá rộng còn trường kiếm lưỡi hẹp hơn.
Vũ khí đánh xa. Gồm có lao. Móc câu, mũi tên. Đây là loại vũ khí có khả năng sát thương đối phương trong một khoảng cách xa, sức đẩy vũ khí đi xa do sức của con người, và sức đẩy cơ học.
- Lao: Phần đầu của lao giống mũi tên có cánh lớn , có 2,3 ngạnh, họng tra cán dài, kích thước trung bình 20 – 26cm, nặng khoảng 100 – 120gr.
- Móc câu chùm: hình dáng giống chiếc mỏ neo nhưng có 3 móc câu uốn cong lên, dùng để quăng, móc. Tiết diện thân hình chữ nhật, móc cong tiết diện hình tròn.
- Mũi tên: dùng với cung, nỏ, loại vũ khí đánh xa truyền thống của dân tộc ta. Dài từ 5 – 13cm, thân mũi tên dài từ 4 – 8cm.
Vũ khí phòng ngự. Mũi chông củ ấu, chông 3 cạnh…
Ngoài ra còn có các loại vũ khí làm từ tre nứa như cung tên, nỏ, bẫy… hay những địa hình bất lợi tự nhiên, thậm chí nhiều loại động vật có nọc độc như ong vò vẽ cũng được sử dụng phổ biến trong thế trận chiến tranh du kích.
* Hỏa khí. Gồm có súng lệnh và súng thần công. Sử cũ còn ghi ngay từ thời Trần đã có pháo đặt trên thuyền tấn công vào chiến thuyền của quân đội Champa. Hồ Quý Ly đã ra lệnh cho con trai là Hồ Nguyên Trừng nghiên cứu sáng chế súng thần công “thần cơ sang pháo” để chống quân xâm lược Minh. Sau này khi Hồ Nguyên Trừng bị bắt sang Trung quốc, nhà Minh đã bắt ông chế tạo loại vũ khí này. Súng ông chế ra có 3 loại: loại lớn đặt trên lưng voi, loại vừa hai người khiêng và loại nhỏ 1 người vác trên vai. Ông được coi là ông tổ của súng thần công.
Từ thế kỷ XIII - XIX ở Việt Nam đã có nhiều loại hỏa khí với nhiều tên gọi khác nhau. Trong đó phổ biến nhất là súng lệnh, súng thần công và một số khẩu đại pháo đúc vào thời Nguyễn.
- Súng lệnh: dùng để bắn phát lệnh. Thân súng chia làm 3 phần rõ rệt: nòng súng, bầu nạp thuốc súng phình to ở gần đuôi và phần đuôi súng. Mỗi phần đều có đai rộng ngăn cách. Trên thân bầu có 2 chi tiết: Hai trụ nổi như đường rãnh ngắm của súng, nằm giữa hai đường là một gờ nổi, có lỗ nhỏ để tra dây cháy chậm mồi nổ cho thuốc súng chứa trong bầu. Bên trong phần bầu đúc hình răng cưa cho thành của bầu nòng vững chắc không bị phá vỡ khi thuốc súng nổ. Trên thân súng còn hay khắc chữ số ký hiệu súng, như “Công tự tam bách thập phân thất hiệu”, nghĩa là “hiệu chữ công số 317”… Kích thước của súng lệnh không lớn, dài khoảng 30 - 40cm, đường kính miệng khoảng 2,5 – 3cm, đường kính nòng khoảng 1,5cm, nặng khoảng 2,2 – 3,5kg. Thường được đúc nguyên khối. Súng lệnh thời Nguyễn còn có các chữ trên thân súng như “Lôi uy tả sở nhị bách lục thập hiệu”, “Báo Vĩnh Hưng”… Nhiều khẩu súng lệnh làm đơn giản, không có ký hiệu, dài ngắn khác nhau từ 30 – 40cm.
- Súng thần công. Thường có tên gọi như Đại Tướng quân, Thượng Tướng quân, Thần Cơ doanh…phổ biến hơn vào thời Nguyễn. Phần lớn súng thần công dài từ 40cm trở lên đến khoảng hơn 100cm. Đường kính ngoài của nòng súng từ 14 – 16cm, đường kính trong từ 3 – 8 cm, đường kính thân nơi lớn nhất từ 13 – 22cm, là phần chứa thuốc súng. Súng có cấu tạo gồm nòng súng lớn dần đến phần đuôi, quanh vành miệng nòng có đai dày, ngoài ra trên thân còn một vài đai khác nhằm giữ cho súng không bị vỡ khi đạn nổ. Lỗ tra ngòi ở vào khoảng 1/3 thân từ đuôi súng, giáp đó có tay xách hình vòng cung nhô cao (súng nhỏ có 1 tay xách ở giữa, còn súng lớn có hai cái đối xứng nhau. Súng thường không có tai chống giật mà có một rãnh cắt ngang đuôi súng, khớp với một bộ phận ở bệ súng giữ cho nòng không giật khi bắn. Đuôi súng là khối tròn. Trên súng thần công hay ghi tên súng, kích thước, cân nặng.
- Đạn súng lệnh, súng thần công: thường bằng đá hay đúc bằng gang, sắt. Hình cầu. Đạn đá đường kính từ 2,5 – 5,5cm, nặng từ 50 – 200gr, có viên lớn hơn. đạn sắt, gang kích thước lớn thường hơn, trung bình trên 10cm, là loại đạn của các khẩu thần công lớn. Ngoài ra thời Nguyễn còn có loại đạn bướm “hồ điệp…” có cấu tạo hai nửa cầu nồi kiền với nhau bởi 1 sợi dây xích dài khoảng 25 – 30cm. Khi bắn đạn bay ra giống đàn bướm bay, tính sát thương cao hơn nhiều.
* “Cửu vị thần công” thời Nguyễn. Theo sử sách, trước ngày Kinh đô Huế thất thủ (5.7.1885) tại Huế có 850 khẩu súng thần công. Nhưng sau sự kiện ấy, Pháp đã ra lệnh phá hủy và thu hồi kim loại. Đến nay Huế chỉ còn lưu giữ khoảng 60 khẩu thần công, đây là những cổ vật quý hiếm được đúc dưới thời Gia Long và Minh Mạng. Trong số này có “Cửu vị Thần công” - 9 khẩu đại bác vĩ đại bằng đồng được đúc vào đầu triều Nguyễn (1804) do những người thợ Phường Đúc Huế chế tác. Ngay sau khi hoàn thành chúng được đặt phía trước Hoàng Thành, phía trong hai cửa Thể Nhơn và Quảng Đức. Cửu vị thần công được chia làm hai nhóm: nhóm bên tả phía cửa Thể Nhơn có 4 khẩu đặt tên theo 4 mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông; nhóm bên hưũ phía cửa Quảng Đức có 5 khẩu đặt tên theo ngũ hành: Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ. Cả 9 khẩu đều được phong là “Thần oai vô địch thượng tướng quân” (được khắc bằng chữ Hán trên thân súng) dù cho đến hết thời Nguyễn chúng chưa tham gia trận mạc bao giờ!
Hình thức và cấu tạo: Đầu miệng súng hơi loe, phần đuôi phình ra được đúc kín gọi là khối hậu (chỗ chứa thuốc súng). Trên thân súng có 6 gờ nổi, trang trí 8 dải hoa văn chạy quanh thân. Giữa súng có gắn hai quai khắc hình hai con lân uốn cong hình dấu ngã. Cách quai 14cm có gờ nổi, trên gờ này khắc chữ Hán cẩn bạc, nội dung ghi công trạng toàn ban đốc công chế tạo súng. Ngoài ra trên thân mỗi súng khắc một bài minh nêu rõ lý do đúc súng vào năm Gia Long thứ 3 (1804).
Quy mô Cửu vị thần công: 9 khẩu đại bác đều dài 5,10m, chu vi vòng thân nơi lớn nhất đến 2,16m, đường kính nòng rộng 0,51m (khẩu kính 230mm), trọng lượng khẩu nhỏ nhất là 17.100 cân, lớn nhất là 18.400 cân.
Súng được trang trí các dải hoa văn tinh xảo ở phần thân, quai. Cả 9 khẩu đều đặt trên hệ thống giá đỡ bằng gỗ lim có bánh xe (thường gọi là bệ súng). Giá súng dài 2,75m, cao 0,73m, bánh xe bằng gỗ có viền sắt đường kính 0,62m, dày 0,22m. Mặt ngoài giá súng chạm khắc hình rồng, đầu rồng chạm nổi mắt lồi trông dữ tợn, nét chạm không cầu kỳ nhưng tinh tế. Riêng các trục quay có hình trụ dài 0,18m, đường kính 0,22m. mặt ngoài có ghi: bên phải là trọng lượng của súng, bên trái ghi cách nạp thuốc và sử dụng súng. Việc bắn súng rất phức tạp nên mỗi khẩu thần công phải có một khẩu đội 5 người phục vụ dưới quyền chỉ huy của một khẩu đội trưởng, đạn phải nạp qua miệng pháo, mất nhiều thời giờ mà tính sát thương không cao, chỉ có tác dụng phá vở công sự kiên cố và thành lũy.
Bên cạnh Cửu vị Thần công, ở Huế còn có 2 khẩu thần công đúc vào thời Minh Mạng (1834). Đây là hai khẩu đại pháo có khẩo kính 310mm, được đặt trên bệ xi măng. Súng dài 1,06m, thân súng có3 gờ chia làm 4 khoang không đều nhau, không có hoa văn. Trên gờ cuối cùng có lỗ điểm hỏa ghi hàng chữ Hán Ngự chế thần uy phá địch Đại tướng quân đệ nhất vị và cuối núm gờ nổi khắc hàng chữ Minh Mạng thập ngũ chú niên. So với Cửu vị Thần công hai khẩu đại pháo thời Minh Mạng không có chỉ dẫn cách bắn, cách dùng đạn cũng như ghi kích thước trọng lượng súng. Bên cạnh súng còn đặt một viên đạn tròn bằng đá đường kính 290mm.
Để đúc những khẩu Thần công lớn và nặng hàng ngàn cân cần có một hiệp thợ đúc có kỹ thuật hoàn thiện ở tất cả các khâu và sự phối hợp đồng bộ. Kỹ thuật đúc súng Thần công thời Nguyễn còn nổi tiếng về trình độ cao trong việc pha chế kim loại, trang trí hoa văn chữ khắc rõ ràng, sắc sảo, mang tính biểu tượng mạnh mẽ.
Vũ khí cổ Việt nam cho biết trang bị vũ khí cho quân đội thời phong kiến, loại bạch khí chiếm tỷ lệ áp đảo so với hỏa khí, vũ khí đánh gần là chính, bộ binh là quân chủ lực mang tính chất quyết định trên chiến trường. Các loại vũ khí bằng sắt chiếm số lượng lớn được chế tạo bằng phương pháp rèn đập thô sơ nhưng tỏ ra có hiệu quả “lấy đoản binh chế trường trận”. Những loại vũ khí này còn phản ánh một cách sinh động nghệ thuật quân sự Việt Nam là Chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích, lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều. Từ thời Lê Trung hưng và nhất là thời Nguyễn, hỏa khí loại lớn như súng thần công bắt đầu có mặt và ngày càng phổ biến. Tuy nhiên chức năng của chúng thường để báo hiệu lệnh hay để “phô trương”, thị uy chứ không hoặc ít sử dụng trong thực tế.
có nhiều hình về vũ khí trang bị cho lính thời Pháp
Sự phát triển của vũ khí có thể chia làm hai thời kỳ: thời kỳ vũ khí sử dụng năng lượng cơ bắp của con người và thời kỳ vũ khí sử dụng năng lượng thuốc nổ (thuốc súng). Vũ khí sử dụng thuốc nổ phát triển từ khoảng thế kỷ XIII đến thế kỷ XIX đã khá hoàn thiện. Như vậy có giai đoạn hai loại vũ khí này cùng tồn tại và phát triển. Tuy ra đời rất sớm và có quá trình phát triển lâu dài hàng ngàn năm nhưng loại vũ khí sử dụng sức lực con người hầu như ít có sự tiến bộ về cấu tạo nên hiệu quả không cao, dần dần bị sự phát triển của loại vũ khí sử dụng thuốc nổ thay thế. Thuật ngữ gọi hai loại vũ khí này là Bạch khí và Hỏa khí.
Sự phát triển của vũ khí có thể chia làm hai thời kỳ: thời kỳ vũ khí sử dụng năng lượng cơ bắp của con người và thời kỳ vũ khí sử dụng năng lượng thuốc nổ (thuốc súng). Vũ khí sử dụng thuốc nổ phát triển từ khoảng thế kỷ XIII đến thế kỷ XIX đã khá hoàn thiện. Như vậy có giai đoạn hai loại vũ khí này cùng tồn tại và phát triển. Tuy ra đời rất sớm và có quá trình phát triển lâu dài hàng ngàn năm nhưng loại vũ khí sử dụng sức lực con người hầu như ít có sự tiến bộ về cấu tạo nên hiệu quả không cao, dần dần bị sự phát triển của loại vũ khí sử dụng thuốc nổ thay thế. Thuật ngữ gọi hai loại vũ khí này là Bạch khí và Hỏa khí.
Nước ta trong suốt các triều đại Lý – Trần – Lê không khi nào quên việc sửa sang võ bị để tăng cường khả năng chống giặc ngoại xâm. Ngay trong thời bình nhiều nhà vua đã xuống chiếu nhắc nhở tướng sĩ không được lơ là phòng thủ quốc gia, phải chăm lo rèn binh luyện tướng, đóng chiến thuyền và rèn vũ khí. Binh thư yếu lược viết “ Cái đạo mạnh binh để chiến thắng có 5 điều: Sửa sang binh khí; Có đủ quân lính và xe cộ; Súc tích nhiều; Rèn luyện sĩ tốt; Kén được tướng giỏi”. Như vậy, “sửa sang binh khí” là điều quan trọng đầu tiên. Trong lịch sử nước ta, trang bị bạch khí cho quân đội phát triển nhất vào thời Lê, thế kỷ XV – XVI. Đến thế kỷ XVIII loại bạch khí phổ biến nhiều loại thông dụng. Theo Hội Điển của triều Nguyễn thì đến giữa thế kỷ XIX phần lớn binh lính của triều đình ra trận còn trang bị bằng bạch khí. Quân đội Tây Sơn tuy đã có pháo và một số loại hỏa khí nhưng về cơ bản vẫn trang bị bạch khí là chính.
Vũ khí cổ Việt Nam có thể chia thành các loại theo chức năng vận hành và hình dáng, gồm có:
- Bạch khí: vũ khí đánh gần, vũ khí đánh xa, vũ khí phòng ngự.
- Hỏa khí: súng lệnh, súng thần công, đạn đá, đạn gang.
* Bạch khí.
Vũ khí đánh gần: gồm có giáo, trường, câu liêm, kiếm, đinh ba…
- Về giáo: có giáo có chuôi hoặc họng tra cán, mũi giáo hình búp đa, hình ngòi bút, hình lá lúa, giáo có ngạnh ở thân. Giáo có thể tra cán ngắn hay dài đến hơn 2m (giáo trường) nên họng tra cán hay chuôi lắp cán đặc biệt cần vững chắc. Kích thước chung của các loại giáo: dài toàn thân từ 29 – 44cm, rộng lưỡi từ 3 - 4,4cm, nặng từ 250 – 540gr. Riêng giáo có ngạnh ở thân dài từ 23 – 40cm, nặng 100 – 320gr, thân giáo có tiết diện vuông thon dần về mũi, ngạnh vuông ở gần mũi nhọn. Ngạnh vuông nhọn dài khoảng 1,5 - 2cm. Chuôi giáo có lỗ chốt đinh để gắn vào cán.
- Mũi trường: là loại giáo có cán rất dài có thể đến 4m, tác dụng dùng để đâm với lực rất mạnh. Mũi trường có tiết diện hình vuông chia thành hai phần rõ rệt là mũi và chuôi tra cán. Kích thước chung: dài từ 40 – 64cm, tiết diện mũi 1,4 x 1,4cm, nặng từ 300 – 520gr.
- Câu liêm: là loại vũ khí khá phổ biến vì có khả năng vừa bổ, đâm, móc kẻ thù. Kích thước thường lớn và được rèn chế khá cầu kỳ. Cấu tạo câu liêm cũng gồm 2 phần là mũi và chuôi tra cán. Mũi thẳng theo trục dọc của chuôi tra cán (phần giáo), sát đầu cán vòng ra một lưỡi hình trăng khuyết, đầu phẳng, sắc (phần câu). Phần cuối đốc câu tạo thành chuôi tra cán. Kích thước chung: dài 52 – 66cm, nặng từ 580 – 1000gr.
- Kiếm: còn được coi là vũ khí tùy thân vì thường được đeo bên mình các tướng lĩnh. Gồm đoản kiếm và trường kiếm. Lưỡi kiếm dài từ 40 – 61cm, nặng từ 500 – 1300gr. Đoản kiếm lưỡi khá rộng còn trường kiếm lưỡi hẹp hơn.
Vũ khí đánh xa. Gồm có lao. Móc câu, mũi tên. Đây là loại vũ khí có khả năng sát thương đối phương trong một khoảng cách xa, sức đẩy vũ khí đi xa do sức của con người, và sức đẩy cơ học.
- Lao: Phần đầu của lao giống mũi tên có cánh lớn , có 2,3 ngạnh, họng tra cán dài, kích thước trung bình 20 – 26cm, nặng khoảng 100 – 120gr.
- Móc câu chùm: hình dáng giống chiếc mỏ neo nhưng có 3 móc câu uốn cong lên, dùng để quăng, móc. Tiết diện thân hình chữ nhật, móc cong tiết diện hình tròn.
- Mũi tên: dùng với cung, nỏ, loại vũ khí đánh xa truyền thống của dân tộc ta. Dài từ 5 – 13cm, thân mũi tên dài từ 4 – 8cm.
Vũ khí phòng ngự. Mũi chông củ ấu, chông 3 cạnh…
Ngoài ra còn có các loại vũ khí làm từ tre nứa như cung tên, nỏ, bẫy… hay những địa hình bất lợi tự nhiên, thậm chí nhiều loại động vật có nọc độc như ong vò vẽ cũng được sử dụng phổ biến trong thế trận chiến tranh du kích.
* Hỏa khí. Gồm có súng lệnh và súng thần công. Sử cũ còn ghi ngay từ thời Trần đã có pháo đặt trên thuyền tấn công vào chiến thuyền của quân đội Champa. Hồ Quý Ly đã ra lệnh cho con trai là Hồ Nguyên Trừng nghiên cứu sáng chế súng thần công “thần cơ sang pháo” để chống quân xâm lược Minh. Sau này khi Hồ Nguyên Trừng bị bắt sang Trung quốc, nhà Minh đã bắt ông chế tạo loại vũ khí này. Súng ông chế ra có 3 loại: loại lớn đặt trên lưng voi, loại vừa hai người khiêng và loại nhỏ 1 người vác trên vai. Ông được coi là ông tổ của súng thần công.
Từ thế kỷ XIII - XIX ở Việt Nam đã có nhiều loại hỏa khí với nhiều tên gọi khác nhau. Trong đó phổ biến nhất là súng lệnh, súng thần công và một số khẩu đại pháo đúc vào thời Nguyễn.
- Súng lệnh: dùng để bắn phát lệnh. Thân súng chia làm 3 phần rõ rệt: nòng súng, bầu nạp thuốc súng phình to ở gần đuôi và phần đuôi súng. Mỗi phần đều có đai rộng ngăn cách. Trên thân bầu có 2 chi tiết: Hai trụ nổi như đường rãnh ngắm của súng, nằm giữa hai đường là một gờ nổi, có lỗ nhỏ để tra dây cháy chậm mồi nổ cho thuốc súng chứa trong bầu. Bên trong phần bầu đúc hình răng cưa cho thành của bầu nòng vững chắc không bị phá vỡ khi thuốc súng nổ. Trên thân súng còn hay khắc chữ số ký hiệu súng, như “Công tự tam bách thập phân thất hiệu”, nghĩa là “hiệu chữ công số 317”… Kích thước của súng lệnh không lớn, dài khoảng 30 - 40cm, đường kính miệng khoảng 2,5 – 3cm, đường kính nòng khoảng 1,5cm, nặng khoảng 2,2 – 3,5kg. Thường được đúc nguyên khối. Súng lệnh thời Nguyễn còn có các chữ trên thân súng như “Lôi uy tả sở nhị bách lục thập hiệu”, “Báo Vĩnh Hưng”… Nhiều khẩu súng lệnh làm đơn giản, không có ký hiệu, dài ngắn khác nhau từ 30 – 40cm.
- Súng thần công. Thường có tên gọi như Đại Tướng quân, Thượng Tướng quân, Thần Cơ doanh…phổ biến hơn vào thời Nguyễn. Phần lớn súng thần công dài từ 40cm trở lên đến khoảng hơn 100cm. Đường kính ngoài của nòng súng từ 14 – 16cm, đường kính trong từ 3 – 8 cm, đường kính thân nơi lớn nhất từ 13 – 22cm, là phần chứa thuốc súng. Súng có cấu tạo gồm nòng súng lớn dần đến phần đuôi, quanh vành miệng nòng có đai dày, ngoài ra trên thân còn một vài đai khác nhằm giữ cho súng không bị vỡ khi đạn nổ. Lỗ tra ngòi ở vào khoảng 1/3 thân từ đuôi súng, giáp đó có tay xách hình vòng cung nhô cao (súng nhỏ có 1 tay xách ở giữa, còn súng lớn có hai cái đối xứng nhau. Súng thường không có tai chống giật mà có một rãnh cắt ngang đuôi súng, khớp với một bộ phận ở bệ súng giữ cho nòng không giật khi bắn. Đuôi súng là khối tròn. Trên súng thần công hay ghi tên súng, kích thước, cân nặng.
- Đạn súng lệnh, súng thần công: thường bằng đá hay đúc bằng gang, sắt. Hình cầu. Đạn đá đường kính từ 2,5 – 5,5cm, nặng từ 50 – 200gr, có viên lớn hơn. đạn sắt, gang kích thước lớn thường hơn, trung bình trên 10cm, là loại đạn của các khẩu thần công lớn. Ngoài ra thời Nguyễn còn có loại đạn bướm “hồ điệp…” có cấu tạo hai nửa cầu nồi kiền với nhau bởi 1 sợi dây xích dài khoảng 25 – 30cm. Khi bắn đạn bay ra giống đàn bướm bay, tính sát thương cao hơn nhiều.
* “Cửu vị thần công” thời Nguyễn. Theo sử sách, trước ngày Kinh đô Huế thất thủ (5.7.1885) tại Huế có 850 khẩu súng thần công. Nhưng sau sự kiện ấy, Pháp đã ra lệnh phá hủy và thu hồi kim loại. Đến nay Huế chỉ còn lưu giữ khoảng 60 khẩu thần công, đây là những cổ vật quý hiếm được đúc dưới thời Gia Long và Minh Mạng. Trong số này có “Cửu vị Thần công” - 9 khẩu đại bác vĩ đại bằng đồng được đúc vào đầu triều Nguyễn (1804) do những người thợ Phường Đúc Huế chế tác. Ngay sau khi hoàn thành chúng được đặt phía trước Hoàng Thành, phía trong hai cửa Thể Nhơn và Quảng Đức. Cửu vị thần công được chia làm hai nhóm: nhóm bên tả phía cửa Thể Nhơn có 4 khẩu đặt tên theo 4 mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông; nhóm bên hưũ phía cửa Quảng Đức có 5 khẩu đặt tên theo ngũ hành: Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ. Cả 9 khẩu đều được phong là “Thần oai vô địch thượng tướng quân” (được khắc bằng chữ Hán trên thân súng) dù cho đến hết thời Nguyễn chúng chưa tham gia trận mạc bao giờ!
Hình thức và cấu tạo: Đầu miệng súng hơi loe, phần đuôi phình ra được đúc kín gọi là khối hậu (chỗ chứa thuốc súng). Trên thân súng có 6 gờ nổi, trang trí 8 dải hoa văn chạy quanh thân. Giữa súng có gắn hai quai khắc hình hai con lân uốn cong hình dấu ngã. Cách quai 14cm có gờ nổi, trên gờ này khắc chữ Hán cẩn bạc, nội dung ghi công trạng toàn ban đốc công chế tạo súng. Ngoài ra trên thân mỗi súng khắc một bài minh nêu rõ lý do đúc súng vào năm Gia Long thứ 3 (1804).
Quy mô Cửu vị thần công: 9 khẩu đại bác đều dài 5,10m, chu vi vòng thân nơi lớn nhất đến 2,16m, đường kính nòng rộng 0,51m (khẩu kính 230mm), trọng lượng khẩu nhỏ nhất là 17.100 cân, lớn nhất là 18.400 cân.
Súng được trang trí các dải hoa văn tinh xảo ở phần thân, quai. Cả 9 khẩu đều đặt trên hệ thống giá đỡ bằng gỗ lim có bánh xe (thường gọi là bệ súng). Giá súng dài 2,75m, cao 0,73m, bánh xe bằng gỗ có viền sắt đường kính 0,62m, dày 0,22m. Mặt ngoài giá súng chạm khắc hình rồng, đầu rồng chạm nổi mắt lồi trông dữ tợn, nét chạm không cầu kỳ nhưng tinh tế. Riêng các trục quay có hình trụ dài 0,18m, đường kính 0,22m. mặt ngoài có ghi: bên phải là trọng lượng của súng, bên trái ghi cách nạp thuốc và sử dụng súng. Việc bắn súng rất phức tạp nên mỗi khẩu thần công phải có một khẩu đội 5 người phục vụ dưới quyền chỉ huy của một khẩu đội trưởng, đạn phải nạp qua miệng pháo, mất nhiều thời giờ mà tính sát thương không cao, chỉ có tác dụng phá vở công sự kiên cố và thành lũy.
Bên cạnh Cửu vị Thần công, ở Huế còn có 2 khẩu thần công đúc vào thời Minh Mạng (1834). Đây là hai khẩu đại pháo có khẩo kính 310mm, được đặt trên bệ xi măng. Súng dài 1,06m, thân súng có3 gờ chia làm 4 khoang không đều nhau, không có hoa văn. Trên gờ cuối cùng có lỗ điểm hỏa ghi hàng chữ Hán Ngự chế thần uy phá địch Đại tướng quân đệ nhất vị và cuối núm gờ nổi khắc hàng chữ Minh Mạng thập ngũ chú niên. So với Cửu vị Thần công hai khẩu đại pháo thời Minh Mạng không có chỉ dẫn cách bắn, cách dùng đạn cũng như ghi kích thước trọng lượng súng. Bên cạnh súng còn đặt một viên đạn tròn bằng đá đường kính 290mm.
Để đúc những khẩu Thần công lớn và nặng hàng ngàn cân cần có một hiệp thợ đúc có kỹ thuật hoàn thiện ở tất cả các khâu và sự phối hợp đồng bộ. Kỹ thuật đúc súng Thần công thời Nguyễn còn nổi tiếng về trình độ cao trong việc pha chế kim loại, trang trí hoa văn chữ khắc rõ ràng, sắc sảo, mang tính biểu tượng mạnh mẽ.
Vũ khí cổ Việt nam cho biết trang bị vũ khí cho quân đội thời phong kiến, loại bạch khí chiếm tỷ lệ áp đảo so với hỏa khí, vũ khí đánh gần là chính, bộ binh là quân chủ lực mang tính chất quyết định trên chiến trường. Các loại vũ khí bằng sắt chiếm số lượng lớn được chế tạo bằng phương pháp rèn đập thô sơ nhưng tỏ ra có hiệu quả “lấy đoản binh chế trường trận”. Những loại vũ khí này còn phản ánh một cách sinh động nghệ thuật quân sự Việt Nam là Chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích, lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều. Từ thời Lê Trung hưng và nhất là thời Nguyễn, hỏa khí loại lớn như súng thần công bắt đầu có mặt và ngày càng phổ biến. Tuy nhiên chức năng của chúng thường để báo hiệu lệnh hay để “phô trương”, thị uy chứ không hoặc ít sử dụng trong thực tế.
Nhà Nguyễn - thực dân Pháp
GS Phan Huy Lê:
Một vấn đề nữa cũng phải thảo luận, là việc nhà Nguyễn (thời Tự Đức) để mất nước trước cuộc xâm lăng của đế quốc Pháp. Kết luận trước đây cho rằng Tự Đức bạc nhược đầu hàng, phản bội dân tộc là chưa thỏa đáng, chưa khách quan. Ông và triều Nguyễn đã tìm mọi cách bảo vệ đất nước và cũng là bảo vệ vương triều đến cùng, nhưng do năng lực và nhãn quan chính trị nên không đề ra được đối sách đúng để giành thắng lợi trước một thế lực xâm lược hoàn toàn mới, mà lịch sử trước đây chưa để lại kinh nghiệm.
Trong cả khu vực Đông Nam Á và Đông Á, tất cả các quốc gia đều mất nước, hoặc thành thuộc địa, hoặc thành nửa thuộc địa. Chỉ riêng Nhật Bản và Thái Lan giữ được độc lập. Nhật Bản thời Minh Trị thực hiện cuộc cải cách lớn, nhưng tình hình kinh tế xã hội của Nhật có khác các nước phương Đông, bắt đầu từ TK XVII khi đóng cửa với bên ngoài nhưng bên trong phát triển kinh tế rất mạnh, tạo lập những tiền đề cho cuộc cải cách.
Thái Lan thì có cách ứng xử rất khôn ngoan, tận dụng được vị thế vùng đệm nằm giữa 2 thế lực đế quốc rất mạnh, Anh ở phía Ấn Độ, Pháp ở phía Đông Dương, lợi dụng được mâu thuẫn và cạnh tranh gay gắt này để duy trì thế độc lập tương đối, thực hiện được đường lối mềm mỏng trong bảo vệ chủ quyền quốc gia, tuy cũng có lúc phải chấp nhận sự lệ thuộc nào đó với thế lực đế quốc này hay đế quốc khác nhưng không bị mất nước. Vương triều Thái Lan sau đó cũng cải cách khá mạnh, duy trì chế độ quân chủ nhưng đi vào khuynh hướng phát triển tư bản chủ nghĩa khá sớm. Chỉ hai quốc gia đó thoát khỏi sự xâm chiếm và thống trị của đế quốc phương Tây.
Chúng ta cần có cái nhìn so sánh để làm sáng rõ hơn nguyên do mất nước cuối thế kỷ XIX. Nghĩa là, trong việc mất nước cuối TK XIX không thể phủ nhận trách nhiệm của triều Nguyễn là nhà nước quản lý đất nước, nhưng lúc phân tích nguyên nhân mất nước thì phải hết sức khách quan, toàn diện, đặt trong bối cảnh lịch sử mới của khu vực và thế giới, không nên quy kết một cách giản đơn.
Có xu hướng nhìn nhận rằng nhà Nguyễn không "mặn mà" với canh tân, đi ngược lại xu thế của thời đại thì sao, thưa GS?
- Nhiều nhà sử học đã đặt ra vấn đề này, và cách giải thích, phân tích, đánh giá cũng còn có sự khác biệt. Trong bối cảnh mới của thời đại thì canh tân là nhu cầu rất bức xúc. Chế độ nhà Nguyễn vẫn là quân chủ, trên hệ tư tưởng Nho giáo, kinh tế xã hội vẫn mang tính tiền tư bản – tiền công nghiệp, nên trên bình diện phát triển của thời đại đã bộc lộ sự chậm tiến, nếu không canh tân thì không đưa đất nước vượt ra khỏi tình trạng lỗi thời, không đủ tiềm lực để tồn tại độc lập. Canh tân thành nhu cầu quyết định sự tồn vong của đất nước, nhất là khi phải đầu đương đầu với một thế lực xâm lược hoàn toàn mới đến từ các đế quốc phương Tây ở trình độ chủ nghĩa tư bản và văn minh công nghiệp cao hơn hẳn ta.
Trong những đề nghị cải cách thời nhà Nguyễn cần phân biệt làm hai loại. Một loạt cải cách trên nền tảng không có gì đụng chạm tới kết cấu kinh tế xã hội đương thời, như khai hoang, làm thủy lợi, chẩn cứu dân nghèo... nghĩa là một số sửa đổi trên nền tảng bảo tồn của chế độ phong kiến, rất cần thiết nhưng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển mới của đất nước phù hợp với xu thế của thời đại..
Có những đề xuất canh tân vượt quá tầm nhìn trên, vươn tới sự phát triển cao của thời đại, tập trung chủ yếu thời Tự Đức, như những điều trần của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Đặng Huy Trứ, ba nhà cải cách có hệ thống nhất. Những cải cách đó không phủ định triều Nguyễn, chưa đụng chạm đến sự tồn tại của chế độ quân chủ, những người đề xuất cải cách đều trung thành với vương triều Nguyễn. Họ đề nghị mở cửa thông thưong, học tập công nghệ phương Tây, phát triển công thương nghiệp, cải cách giáo dục, củng cố quốc phòng...Những đề nghị canh tân đó sẽ tạo nên những chuyển biến về kinh tế xã hội để đưa đất nước vượt qua tình trạng lạc hậu và mở ra xu thế phát triển mới. Nhưng rất tiếc những đề nghị đó không được chấp nhận.
Trong các vua nhà Nguyễn, người có ý tưởng canh tân tương đối sớm với những suy tư về tình hình trong nước và cả tầm nhìn khu vực là Minh Mạng. Ông gửi nhiều phái đoàn ra ngoài, lý do là để mua hàng hóa, nhưng những nơi tới đều là căn cứ thương mại - quân sự của phương Tây. Ông có tầm nhìn hướng biển, có những thử nghiệm thành công kỹ thuật phương Tây như đóng tàu chạy hơi nước, dịch nhiều sách kỹ thuật phương Tây ra chữ Hán, mua vũ khí, củng cố hệ thống thành lũy... , rất chú ý đến việc phòng vệ ven biển. Đó là tầm nhìn chiến lược, nhưng Minh Mạng mới có những ý tưởng chứ chưa cụ thể hóa thành chủ trương biện pháp có hệ thống và chưa tập hợp được trong triều những người có đầu óc canh tân nên chưa thể biến ý tưởng thành hiện thực.
Còn những vấn đề khác nữa cũng sẽ được đề cập trong hội thảo, nhưng thời gian không cho phép đi sâu, chẳng hạn như về vai trò Nho giáo trong bối cảnh TK 19 thì đánh giá thế nào? Hay việc nhà Nguyễn có những thành tựu trong việc thống nhất đất nước, cải cách bộ máy hành chính tiến bộ,... nhưng lại không thu phục được lòng dân, tình hình xã hội bất ổn định triền miên, khởi nghĩa nông dân nhiều nhất so với các thời kỳ trước đây... Hay chính sách của nhà Nguyễn với tôn giáo thế nào? Còn rất nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.
Một vấn đề nữa cũng phải thảo luận, là việc nhà Nguyễn (thời Tự Đức) để mất nước trước cuộc xâm lăng của đế quốc Pháp. Kết luận trước đây cho rằng Tự Đức bạc nhược đầu hàng, phản bội dân tộc là chưa thỏa đáng, chưa khách quan. Ông và triều Nguyễn đã tìm mọi cách bảo vệ đất nước và cũng là bảo vệ vương triều đến cùng, nhưng do năng lực và nhãn quan chính trị nên không đề ra được đối sách đúng để giành thắng lợi trước một thế lực xâm lược hoàn toàn mới, mà lịch sử trước đây chưa để lại kinh nghiệm.
Trong cả khu vực Đông Nam Á và Đông Á, tất cả các quốc gia đều mất nước, hoặc thành thuộc địa, hoặc thành nửa thuộc địa. Chỉ riêng Nhật Bản và Thái Lan giữ được độc lập. Nhật Bản thời Minh Trị thực hiện cuộc cải cách lớn, nhưng tình hình kinh tế xã hội của Nhật có khác các nước phương Đông, bắt đầu từ TK XVII khi đóng cửa với bên ngoài nhưng bên trong phát triển kinh tế rất mạnh, tạo lập những tiền đề cho cuộc cải cách.
Thái Lan thì có cách ứng xử rất khôn ngoan, tận dụng được vị thế vùng đệm nằm giữa 2 thế lực đế quốc rất mạnh, Anh ở phía Ấn Độ, Pháp ở phía Đông Dương, lợi dụng được mâu thuẫn và cạnh tranh gay gắt này để duy trì thế độc lập tương đối, thực hiện được đường lối mềm mỏng trong bảo vệ chủ quyền quốc gia, tuy cũng có lúc phải chấp nhận sự lệ thuộc nào đó với thế lực đế quốc này hay đế quốc khác nhưng không bị mất nước. Vương triều Thái Lan sau đó cũng cải cách khá mạnh, duy trì chế độ quân chủ nhưng đi vào khuynh hướng phát triển tư bản chủ nghĩa khá sớm. Chỉ hai quốc gia đó thoát khỏi sự xâm chiếm và thống trị của đế quốc phương Tây.
Chúng ta cần có cái nhìn so sánh để làm sáng rõ hơn nguyên do mất nước cuối thế kỷ XIX. Nghĩa là, trong việc mất nước cuối TK XIX không thể phủ nhận trách nhiệm của triều Nguyễn là nhà nước quản lý đất nước, nhưng lúc phân tích nguyên nhân mất nước thì phải hết sức khách quan, toàn diện, đặt trong bối cảnh lịch sử mới của khu vực và thế giới, không nên quy kết một cách giản đơn.
Có xu hướng nhìn nhận rằng nhà Nguyễn không "mặn mà" với canh tân, đi ngược lại xu thế của thời đại thì sao, thưa GS?
- Nhiều nhà sử học đã đặt ra vấn đề này, và cách giải thích, phân tích, đánh giá cũng còn có sự khác biệt. Trong bối cảnh mới của thời đại thì canh tân là nhu cầu rất bức xúc. Chế độ nhà Nguyễn vẫn là quân chủ, trên hệ tư tưởng Nho giáo, kinh tế xã hội vẫn mang tính tiền tư bản – tiền công nghiệp, nên trên bình diện phát triển của thời đại đã bộc lộ sự chậm tiến, nếu không canh tân thì không đưa đất nước vượt ra khỏi tình trạng lỗi thời, không đủ tiềm lực để tồn tại độc lập. Canh tân thành nhu cầu quyết định sự tồn vong của đất nước, nhất là khi phải đầu đương đầu với một thế lực xâm lược hoàn toàn mới đến từ các đế quốc phương Tây ở trình độ chủ nghĩa tư bản và văn minh công nghiệp cao hơn hẳn ta.
Trong những đề nghị cải cách thời nhà Nguyễn cần phân biệt làm hai loại. Một loạt cải cách trên nền tảng không có gì đụng chạm tới kết cấu kinh tế xã hội đương thời, như khai hoang, làm thủy lợi, chẩn cứu dân nghèo... nghĩa là một số sửa đổi trên nền tảng bảo tồn của chế độ phong kiến, rất cần thiết nhưng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển mới của đất nước phù hợp với xu thế của thời đại..
Có những đề xuất canh tân vượt quá tầm nhìn trên, vươn tới sự phát triển cao của thời đại, tập trung chủ yếu thời Tự Đức, như những điều trần của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Đặng Huy Trứ, ba nhà cải cách có hệ thống nhất. Những cải cách đó không phủ định triều Nguyễn, chưa đụng chạm đến sự tồn tại của chế độ quân chủ, những người đề xuất cải cách đều trung thành với vương triều Nguyễn. Họ đề nghị mở cửa thông thưong, học tập công nghệ phương Tây, phát triển công thương nghiệp, cải cách giáo dục, củng cố quốc phòng...Những đề nghị canh tân đó sẽ tạo nên những chuyển biến về kinh tế xã hội để đưa đất nước vượt qua tình trạng lạc hậu và mở ra xu thế phát triển mới. Nhưng rất tiếc những đề nghị đó không được chấp nhận.
Trong các vua nhà Nguyễn, người có ý tưởng canh tân tương đối sớm với những suy tư về tình hình trong nước và cả tầm nhìn khu vực là Minh Mạng. Ông gửi nhiều phái đoàn ra ngoài, lý do là để mua hàng hóa, nhưng những nơi tới đều là căn cứ thương mại - quân sự của phương Tây. Ông có tầm nhìn hướng biển, có những thử nghiệm thành công kỹ thuật phương Tây như đóng tàu chạy hơi nước, dịch nhiều sách kỹ thuật phương Tây ra chữ Hán, mua vũ khí, củng cố hệ thống thành lũy... , rất chú ý đến việc phòng vệ ven biển. Đó là tầm nhìn chiến lược, nhưng Minh Mạng mới có những ý tưởng chứ chưa cụ thể hóa thành chủ trương biện pháp có hệ thống và chưa tập hợp được trong triều những người có đầu óc canh tân nên chưa thể biến ý tưởng thành hiện thực.
Còn những vấn đề khác nữa cũng sẽ được đề cập trong hội thảo, nhưng thời gian không cho phép đi sâu, chẳng hạn như về vai trò Nho giáo trong bối cảnh TK 19 thì đánh giá thế nào? Hay việc nhà Nguyễn có những thành tựu trong việc thống nhất đất nước, cải cách bộ máy hành chính tiến bộ,... nhưng lại không thu phục được lòng dân, tình hình xã hội bất ổn định triền miên, khởi nghĩa nông dân nhiều nhất so với các thời kỳ trước đây... Hay chính sách của nhà Nguyễn với tôn giáo thế nào? Còn rất nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.
Đọc "Những nhà cải cách Việt Nam"
Trong danh sách "Những nhà cải cách Việt Nam" do Lê Minh Quốc liệt kê có
1. Lý Công Uẩn: Vua Thái Tổ lưu tâm về việc sửa sang trong nước: đổi phép cũ của nhà Tiền Lê; chia nước ra làm 24 lộ, gọi Hoan Châu và Ái Châu là trại. Lại định ra 6 hạng thuế là: thuế ruộng, đầm, ao; thuế đất trồng dâu và bãi phù sa; thuế sản vật ở núi; thuế mắm muối đi quan Ải quan; thuế sừng tê giác, ngà voi và hương ở trên mạn núi xuống; thuế tre gỗ hoa quả. Vua cho những bậc công chúa coi việc trưng thu các thứ thuế ấy.
2. Trần Thủ Độ
3. Hồ Quý Ly
4. Lê Thánh Tông: Trong lúc trị vì, Lê Thánh Tông đã đề xuất nhiều cải cách trong hệ thống quân sự, hành chính, kinh tế, giáo dục và luật pháp. Ngoài ra, ông đã mở mang bờ cõi Đại Việt bằng cách đánh chiếm kinh đô của vương quốc Chăm Pa (1471), sáp nhập một phần lãnh thổ Chăm Pa vào Đại Việt; đồng thời có cuộc hành quân về phía Tây đất nước (1479).
5. Lương Đắc Bằng
6. Giáp Hải
7. Nguyễn Quý Đức
8. Trịnh Cương
9. Bùi Sĩ Tiêm
10. Nguyễn Cư Trinh
11. Phạm Phú Thứ
12. Đặng Huy Trứ
13. Nguyễn Trường Tộ
14. Bùi Viện
15. Nguyễn Lộ Trạch
16. Trần Quý Cáp
17. Nguyễn Văn Linh
Trong danh sách 17 nhà cải cách được liệt kê ở trên thì những nhà cải cách thành công, có ảnh hưởng lớn đến việc thay đổi xã hội là:
1. Lý Công Uẩn
2. Trần Thủ Độ
3. Lê Thánh Tông
4. Trịnh Cương
5. Nguyễn Văn Linh
Danh sách trên cho thấy rằng những nhà cải cách thành công đều là những người đang nắm quyền lực, có ảnh hưởng đến toàn thể xã hội. Do đó, những đề xuất cải cách của họ được đưa vào cuộc sống một cách nhanh chóng và rộng rãi. Một trường hợp ngoại lệ đó là Hồ Quý Ly, nhiều cải cách của ông đáng tiếc là không thành công ví dụ như sử dụng tiền giấy bởi vì lý do kỹ thuật.
Những nhà cải cách đều là giới sĩ phu (trí thức) được đào tạo tốt do đó mới có được tầm nhìn sâu rộng về các vấn đề xã hội và đề xuất công cuộc cải cách toàn diện. Những người có cơ hội học hỏi ở nước ngoài thường đề xuất những cải cách mang tính đột phá ví dụ như Nguyễn Trường Tộ nhưng họ cũng chính là người đi quá xa thời đại khiến cho những đề xuất không được chấp nhận.
Những đề xuất cải cách cần phải là nguồn lực để hiện thực hóa. Nó giải thích lý do vì sao những nhà cải cách thành công đều là những nhà chính trị nắm quyền lực trong tay bởi vì chính họ mới có đủ khả năng để huy động nguồn lực từ bên dưới thực hiện công cuộc cải cách sâu rộng.
Những cuộc cải cách phải phù hợp với trình độ phát triển xã hội thời bấy giờ. Lịch sử cho thấy rằng những cuộc cải cách đi quá xa thời đại đều rơi vào trường hợp thất bại. Nguyễn Trường Tộ là một ví dụ điển hình khi những cải cách sâu rộng do ông đề xướng đều bị bác bỏ một cách thẳng thừng. Nguyên do là vua tôi triều Nguyễn không hiểu và cũng không có khả năng hiện thực hóa những bản điều trần đó.
Những đề xướng cải cách thời nào cũng có, nó cho thấy rằng trong xã hội luôn xuất hiện những người trí thức (sĩ phu) có tầm nhìn đi trước thời đại mà họ đang sống. Tuy nhiên việc những đề xuất cải cách có được thực thi hay không là một vấn đề phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác.
1. Lý Công Uẩn: Vua Thái Tổ lưu tâm về việc sửa sang trong nước: đổi phép cũ của nhà Tiền Lê; chia nước ra làm 24 lộ, gọi Hoan Châu và Ái Châu là trại. Lại định ra 6 hạng thuế là: thuế ruộng, đầm, ao; thuế đất trồng dâu và bãi phù sa; thuế sản vật ở núi; thuế mắm muối đi quan Ải quan; thuế sừng tê giác, ngà voi và hương ở trên mạn núi xuống; thuế tre gỗ hoa quả. Vua cho những bậc công chúa coi việc trưng thu các thứ thuế ấy.
2. Trần Thủ Độ
3. Hồ Quý Ly
4. Lê Thánh Tông: Trong lúc trị vì, Lê Thánh Tông đã đề xuất nhiều cải cách trong hệ thống quân sự, hành chính, kinh tế, giáo dục và luật pháp. Ngoài ra, ông đã mở mang bờ cõi Đại Việt bằng cách đánh chiếm kinh đô của vương quốc Chăm Pa (1471), sáp nhập một phần lãnh thổ Chăm Pa vào Đại Việt; đồng thời có cuộc hành quân về phía Tây đất nước (1479).
5. Lương Đắc Bằng
6. Giáp Hải
7. Nguyễn Quý Đức
8. Trịnh Cương
9. Bùi Sĩ Tiêm
10. Nguyễn Cư Trinh
11. Phạm Phú Thứ
12. Đặng Huy Trứ
13. Nguyễn Trường Tộ
14. Bùi Viện
15. Nguyễn Lộ Trạch
16. Trần Quý Cáp
17. Nguyễn Văn Linh
Trong danh sách 17 nhà cải cách được liệt kê ở trên thì những nhà cải cách thành công, có ảnh hưởng lớn đến việc thay đổi xã hội là:
1. Lý Công Uẩn
2. Trần Thủ Độ
3. Lê Thánh Tông
4. Trịnh Cương
5. Nguyễn Văn Linh
Danh sách trên cho thấy rằng những nhà cải cách thành công đều là những người đang nắm quyền lực, có ảnh hưởng đến toàn thể xã hội. Do đó, những đề xuất cải cách của họ được đưa vào cuộc sống một cách nhanh chóng và rộng rãi. Một trường hợp ngoại lệ đó là Hồ Quý Ly, nhiều cải cách của ông đáng tiếc là không thành công ví dụ như sử dụng tiền giấy bởi vì lý do kỹ thuật.
Những nhà cải cách đều là giới sĩ phu (trí thức) được đào tạo tốt do đó mới có được tầm nhìn sâu rộng về các vấn đề xã hội và đề xuất công cuộc cải cách toàn diện. Những người có cơ hội học hỏi ở nước ngoài thường đề xuất những cải cách mang tính đột phá ví dụ như Nguyễn Trường Tộ nhưng họ cũng chính là người đi quá xa thời đại khiến cho những đề xuất không được chấp nhận.
Những đề xuất cải cách cần phải là nguồn lực để hiện thực hóa. Nó giải thích lý do vì sao những nhà cải cách thành công đều là những nhà chính trị nắm quyền lực trong tay bởi vì chính họ mới có đủ khả năng để huy động nguồn lực từ bên dưới thực hiện công cuộc cải cách sâu rộng.
Những cuộc cải cách phải phù hợp với trình độ phát triển xã hội thời bấy giờ. Lịch sử cho thấy rằng những cuộc cải cách đi quá xa thời đại đều rơi vào trường hợp thất bại. Nguyễn Trường Tộ là một ví dụ điển hình khi những cải cách sâu rộng do ông đề xướng đều bị bác bỏ một cách thẳng thừng. Nguyên do là vua tôi triều Nguyễn không hiểu và cũng không có khả năng hiện thực hóa những bản điều trần đó.
Những đề xướng cải cách thời nào cũng có, nó cho thấy rằng trong xã hội luôn xuất hiện những người trí thức (sĩ phu) có tầm nhìn đi trước thời đại mà họ đang sống. Tuy nhiên việc những đề xuất cải cách có được thực thi hay không là một vấn đề phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác.
Đăng ký:
Nhận xét (Atom)